Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

10 PHÁP BA LA MẬT - 2. TRÌ GIỚI (Sila)


2. Trì Giới (Sila)
Giới (Sila) nằm trong lòng quảng đại khác thường của một vị Bồ Tát. Danh từ "Sila" trong Phạn ngữ có nghĩa là quy luật. Giới gồm có những bổn phận phải làm (caritta) và những điều nên tránh (varitta). Đạo làm cha mẹ, làm con, làm vợ, làm chồng, làm trò, làm thầy, làm bạn, bổn phận đối với các bậc tu sĩ, với kẻ ăn người ở trong nhà v.v... đều được giảng giải rõ ràng và cặn kẽ trong kinh Sigalo-vada sutta.
Tán dương bộ kinh nầy, Giáo sư Rhys Davids có nói:
"Người nào được ở trong một gia tộc hoặc trong một làng nằm dài theo lưu vực sông Hằng (Ganges) thật là hữu phúc, vì nơi đây dân chúng sống trong tinh thần bác ái an lành, trong tinh thần công lý cao thượng, nơi đây dân chúng thở được một thứ không khí nhẹ nhàng, do những lời nói giản dị, chất phác tạo nên..."
Và Giáo sư Rhys Davids thêm rằng:
"Ta cũng có thể nói rằng những người sống trong một gia đình hoặc trong một làng nằm dài theo lưu vực sông Thames ngày nay cũng không kém phước, vì nơi đây (Anh Quốc) giáo lý ban dạy lòng từ bi giữa người và người của Đức Phật đã thấm nhuần đời sống gia đình, xã hội, và đã làm căn bản cho một nền luân lý vững chắc. Giáo lý ấy vẫn còn rõ ràng, đầy đủ và thích hợp với người Anh ngày nay, cũng như từ bao giờ, đã thích hợp với người Ấn.
"Thật vậy, ngày nay và tại Anh Quốc, Tạng luật hay những quy luật trong tạng ấy vẫn còn nguyên vẹn sự công hiệu của nó, như thuở xưa kia tại thành Vương Xá (Rajagaha). Những giới nầy, được ban hành với một tinh thần sáng suốt, rộng rãi và lành mạnh, rất cần thiết để tạo cho con người một đời sống an lành và hữu phước."
Bổn phận của người Phật tử đại khái có năm phần:
1. Con đối với cha mẹ, có bổn phận:
* Phải phụng dưỡng và cung cấp đầy đủ vật dụng cho cha mẹ.
* Làm công việc thay thế cha mẹ.
* Có một tác phong đạo đức thế nào để giữ tròn danh giá cho gia tộc.
* Tỏ ra xứng đáng thọ hưởng di sản của ông cha, và
* Để bát cúng dường, hồi hướng phước báu cho những người trong gia tộc đã quá vãng.
2. Cha mẹ, được con săn sóc và giúp đỡ như vậy, phải biết thương con và có bổn phận:
* Khuyên lơn và ngăn cản, không để con làm điều tội lỗi, tạo nghiệp bất thiện.
* Nhắc nhở và dẫn dắt con luôn luôn đi trên đường thiện.
* Giúp con hành nghề sanh sống chân chánh.
* Khi con lớn khôn, dựng vợ gả chồng một cách xứng đáng, và
* Kịp thời chia lại cho con phần tài sản của mình.
3. Học trò đối với thầy có bổn phận:
* Luôn luôn tỏ lòng cung kính
* Trông nom săn sóc thầy.
* Chăm chỉ nghe lời thầy dạy.
* Khi cần đến, hết lòng giúp đỡ.
* Rán sức dạy dỗ trò biết tôn trọng kỷ luật.
* Cố gắng làm cho trò lãnh hội dễ dàng lời dạy.
* Dạy những môn kỹ thuật và khoa học thích hợp.
* Tiến dẫn trò vào giới thân cận của mình để trò giao thiệp với bạn bè thân thuộc mình.
* Đào tạo trò cho ra những người hoàn hảo trên mọi phương tiện.
5. Chồng đối với vợ, có bổn phận:
* Luôn luôn nhã nhặn, thanh tao.
* Không khi nào tỏ ý khinh rẻ.
* Luôn luôn trung thành với vợ.
* Giao quyền hành cho vợ.
* Mua sắm cho vợ các đồ trang sức.
6. Vợ, được chồng đối đãi như vậy, phải biết thương chồng và có bổn phận:
* Làm tròn bổn phận trong nhà,
* Vui vẻ, tử tế với thân bằng quyến thuộc của chồng,
* Luôn luôn trung thành với chồng.
* Giữ gìn cẩn thận những đồ trang sức, thận trọng coi sóc của cải trong nhà, và
* Luôn luôn siêng năng, không tháo trút công việc.
7. Một thiện hữu đối với bạn bè thân thuộc, có bổn phận:
* Quảng đại, khoan hồng.
* Cư xử nhã nhặn, thanh tao.
* Sẵn sàng làm việc phải đối với bạn bè thân thuộc. Thấy ai hữu sự liền ra tay giúp đỡ, không đợi cầu khẩn.
* Có tinh thần bình đẳng, và
* Luôn luôn thành thật.
8. Người bạn, được đối xử như vậy có bổn phận:
* Bảo vệ bạn trong lúc cô đơn, cứu vớt bạn trong cơn sa ngã.
* Khi tài sản bạn không ai trông nom, hết lòng bảo vệ, không để bạn bị hao tổn.
* Nếu bạn lâm vào tình trạng khủng hoảng, hết lòng đùm bọc và làm cho mình trở nên chỗ nương tựa của bạn.
* Không nên bỏ bạn lẻ loi trong cơn nguy biến.
* Đối với gia đình bạn, luôn luôn nhã nhặn, khiêm tốn.
9. Đối với kẻ ăn người ở, chủ nhà có bổn phận:
* Không nên giao phó công việc làm quá sức.
* Thù lao và nuôi cơm đầy đủ.
* Khi đau ốm, tận tình săn sóc.
* Chia sớt những món ngon vật lạ.
* Không bắt làm quá giờ.
10. Người làm công, được chủ đối đãi tử tế như vậy, phải biết thương chủ và có bổn phận:
* Thức dậy trước chủ.
* Đi ngủ sau chủ.
* Chỉ lấy hoặc dùng những vật chi mà chủ đã cho.
* Tận tình làm cho công việc trong nhà được vẹn toàn.
* Giữ gìn danh giá cho chủ, làm cho danh thơm của chủ được truyền ra xa rộng.
11. Người cao quý sang trọng phải đối xử với hàng tu sĩ như sau:
* Tỏ lòng từ ái trong hành động.
* Tỏ lòng từ ái trong lời nói.
* Tỏ lòng từ ái trong tư tưởng.
* Luôn luôn mở rộng cửa nhà để tiếp đón.
* Sẵn sàng hỗ trợ và dâng cúng những vật dụng cần thiết.
12. Hàng tu sĩ, được người cao quý sang trọng đối xử như vậy, phải biết thương và có bổn phận:
* Khuyên nhủ và cản ngăn không để rơi vào con đường lầm lạc.
* Nhắc nhở và dẫn dắt đi trên đường thiện.
* Hết lòng thương mến.
* Thuyết giảng những pháp mà người ấy chưa từng nghe, và giải thích rõ ràng, cặn kẻ những pháp đã thuyết rồi.
* Vạch cho thấy con đường dẫn đến những cảnh giới an vui hạnh phúc.
Người đã làm tròn những điều đáng làm (Caritta Sila) nầy thật đúng là con người thanh lịch, hoàn toàn trong sạch và cao quý trong xã hội.
Ngoài những bổn phận ấy, Bồ Tát còn phải cố gắng tránh những điều không nên làm (Varita Sila), ghép mình trong giới luật để sống cuộc sống lý tưởng của một Phật tử thuần thành chân chánh.
Sau khi suy luận rõ ràng và đúng đắn thế nào là định luật nhân quả. Bồ Tát cố gắng tránh xa tất cả những điều bất thiện xấu xa lầm lạc và tận lực làm tất cả những điều thiện mà mình có thể làm. Ngài nhận thức rằng bổn phận của mình là trở thành một nguồn hạnh phúc cho tất cả và không bao giờ gây phiền toái cho một chúng sanh nào, dầu người hay thú.
Mọi người đều quý trọng đời sống của mình. Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác, Bồ Tát rãi tâm Từ đến tất cả chúng sanh, cho đến những con vật bé nhỏ đang bò dưới chân, và không khi nào sát hại hoặc làm tổn thương một sinh vật nào. Con người vốn sẵn có một thú tính xúi giục giết hại những sinh vật khác để ăn thịt mà không chút thương xót. Cũng có khi sát sanh để tiêu khiển thì giờ. Dầu để nuôi sống thân mạng hay để tìm thú vui, không có lý do nào chánh đáng để giết một sanh linh hoặc làm cách nào khác cho một sanh linh bị giết. Có những phương pháp tàn nhẫn, đáng ghê tởm, cũng có những phương pháp mà người ta gọi là nhân đạo, để sát sanh. Nhưng làm đau khổ một chúng sanh là đã thiếu lòng từ ái. Giết một con thú đã là một hành động bất chánh, nói chi đến giết một con người, mặc dầu nhiều lý do đã được viện dẫn, gọi là chánh đáng, có khi gọi cao quý, để con người tàn sát giết hại con người.
Bồ Tát cũng tránh trộm cắp, bất luận dưới hình thức nào, trực tiếp hay gián tiếp. Làm như vậy, những đức tính thanh bạch, thành thật và ngay thẳng được phát triển rộng có thể phương hại đến phẩm giá con người, và hết sức cố gắng giữ mình hoàn toàn trong sạch.
Ngài không nói dối, không nói lời thô lổ cộc cằn, không nói điều nào làm cho người nầy có thể phiền trách người khác, không nói những lời vô ích. Ngài chỉ nói những lời thanh tao nhã nhặn, chân thật, dụi dàng, những lời có thể đem lại cho người khác hoàn cảnh hòa hợp, tình trạng an vui hạnh phúc, và những lời hữu ích.
Bồ Tát không dùng món chi có chất độc hoặc có thể làm cho tinh thần mất sáng suốt. Trái lại, Ngài luôn luôn luyện tập cho tâm được an trụ, cho trí được sáng suốt.
Mặc dầu có phải bị thiệt thòi đi nữa, Bồ Tát cũng không hề dể duôi để phạm phải một điều nào trong năm nguyên tắc căn bản để kiểm soát hành động và lời nói mình. Để giữ tròn năm giới, không những Bồ Tát có khi phải hy sinh tài sản, sự nghiệp, mà cũng có vài trường hợp Ngài phải hy sinh cả tánh mạng.
Không nên lầm tưởng rằng trong vòng luân hồi, một vị Bồ Tát phải hoàn toàn trong sạch. Đã sanh ra làm chúng sanh trong cõi phàm, Ngài cũng có những nhược điểm và lỗi lầm. Vài câu chuyện trong Túc Sanh Truyện (Jataka) như Kanavera Jataka (số 318) có mô tả một vị Bồ Tát nọ như một tên trộm cướp vô cùng lợi hại. Tuy nhiên, đó là một trường hợp hy hữu, hơn là một thông lệ.
Đối với Bồ Tát, là người có nguyện vọng trở thành Phật, thì công trình nghiêm túc giữ gìn giới luật trong sạch là điều vô cùng quan trọng. Túc Sanh Truyện Sila Vimamsa Jataka (số 362) có đoạn thuật lại lời một vị Bồ Tát như thế nầy:
"Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không có giá trị."
Trong sách Visuddhi Magga (Thanh Tịnh Đạo), Đức Buddhaghosa viết rằng giới luật là nền tảng của tất cả đức hạnh:
Đạo chính đáng cho người vững chí;
Sống thanh cao, cao quý chi bằng.
Nên trang đức hạnh ai tầng.
Mấy ai tả được uy hùng đến đâu.
Cũng không phải dòng sâu lồng lộng
Cửa Hằng Giang với ngọn Yama (Yanuma)
Thủy triều reo rắc sông Sa (Sarabhu)
Sông A Ti (Acivarati) với đại hà Ma Hi
Mà rửa sạch những gì nhơ bợn
Và những chi bất tịnh nơi lòng.
Chỉ đức hạnh, sức khôn cùng.
Gội tan ác ý, rửa dần mê tâm.
Với gấm vóc, hương trầm bảo vật
Cùng trăng thu vằng vặc ánh vàng.
Nhẹ nhàng gió mát đêm trường.
Cũng không xoa dịu nỗi lòng tham sân.
Chỉ đức hạnh trong ngần cao quý
Là vững bền, tiết chế lòng người.
Trầm hương bay thuận gió đời.
Chỉ hương đức hạnh ngát trời gần, xa.
Nào nấc tiến cho ta tinh tấn
Để ta nương đến tận trời cao.
Cửa vào mở lối ta vào
Niết Bàn cảnh giới muôn màu cho ta.
Đời đạo hạnh, tinh hoa, giới đức
Không điểm tô, trang sức chi hơn
Mà luôn sáng tỏ vô ngần.
Chỉ nơi đức hạnh rỡ ràng hào quang.
Nào vua chúa ngọc vàng lóng lánh
Dường mờ lu bên ánh rạng nầy
Tâm người đạo hạnh ngày ngày
Chỉ còn thanh tịnh và đầy an vui.
Qua kinh sách lòng người phải rõ.
Đời thanh cao uy chế chi bằng:
Đạo là nguồn cội phước lành.
Đạo là nguồn tiêu diệt mọi căn mê lầm. 
[3]

 [3] Bản dịch đoạn nầy của sách Thanh Tịnh Đạo được bà Hồ Thị Linh sắp thành văn vần.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét