PHÁP DUYÊN KHỞI (PATICCASAMUPPÀDA) - PHẦN X (2) | Thiền Giữa Đời Thường

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

PHÁP DUYÊN KHỞI (PATICCASAMUPPÀDA) - PHẦN X (2)






CÂU CHUYỆN VỀ PHẠM THIÊN BAKA

Ðiều tiên quyết để chấm dứt vòng luân hồi là đoạn diệt nguyên nhân nòng cốt của nó, tức là vô minh, vì vô minh luôn luôn dẫn theo hành, thức v.v... đến lão tử. Ðiều này quả là đúng trong các cõi dục cũng như ở trong các cõi phạm thiên hữu sắc.
Thời Ðức Phật, có một vị Phạm thiên tên là Baka. Vị ấy sống rất lâu đến nhiều đại kiếp. Quả thực vậy, vị ấy sống quá lâu đến nỗi không còn nhớ những kiếp quá khứ của vị ấy, nên tin vào sự bất tử của mình, là không có sự già và chết. Ðức Phật đi đến chỗ ngụ của Phạm thiên Baka để diệt trừ tà kiến của vị ấy. Vị Phạm thiên vui mừng tiếp đón Ðức Phật và huênh hoang ca ngợi đời sống vĩnh cửu của mình. Ðức Phật nói rằng quan niệm sai lầm của vị ấy thật là kinh khủng, đã làm cho vị ấy phủ nhận tánh chất vô thường, già và chết. Ngài chỉ ra những thiện nghiệp mà nhờ đó, vị ấy có được cuộc sống lâu dài ở cõi phạm thiên và chính sự sống lâu khôn lường này khiến vị ấy quên đi những kiếp sống quá khứ của mình, lại làm sanh khởi tà kiến về sự bất tử của vị ấy. Khi nghe qua những lời của Ðức Phật, Phạm thiên Baka bèn nghĩ lại về sự toàn năng của mình. Tuy nhiên, vị ấy vẫn dương dương tự đắc và để phô trương quyền năng của mình, vị ấy cố gắng biến mất trước Ðức Phật và những vị Phạm thiên khác, nhưng không thành. Do oai lực của Ðức Phật, vị ấy vẫn sờ sờ ở đó.
Rồi Ðức Phật tuyên đọc câu kệ sau đây:
"Bhàvevaham bhayam disvà bhavam ca vibhavesinam bhavam nàbhivadim kinci nandinca upàdiyim"
Ta không khen ngợi bất cứ sanh hữu nào, bởi vì ta thấy sự nguy hiểm trong đó. Ta đã từ bỏ ái dục đối với sanh hữu, bởi vì ta biết rõ sự khổ của nó.
Phạm thiên Baka và những vị Phạm thiên khác đã sống rất lâu đến nỗi họ cho kiếp sống và chỗ ngụ của họ là vĩnh hằng. Cũng thế, những điều khổ của đời sống thoát ra khỏi sự lưu ý của những người có nhiều may mắn trong cuộc sống, như sức khỏe, tài sản, quyền tước, sự thành công v.v... Nhưng đời sống ở cả ba cõi đều là khổ. Những vị phạm thiên ở cõi hữu sắc hoặc vô sắc có thể sống trải qua nhiều đại kiếp, nhưng cuối cùng họ cũng phải chết.

CHÁNH BIẾN TRI

Ðó là tuệ quán dẫn đến sự đoạn diệt vô minh - là nguyên nhân nòng cốt của khổ. Ðối với Ðức Phật, đây là một trong những ân đức của Ngài. Sammàsambuddha là bậc giác ngộ Tứ diệu đế một cách chân chánh, thông suốt và độc lập (không nhờ vào kẻ khác). Ở đây, mười hai mắc xích của pháp duyên khởi có thể được sắp theo Tứ diệu đế.
Như vậy, lão và tử là đế thứ nhất, tức khổ đế, và tái sanh là tập đế, sự chấm dứt của nhân này và quả này là diệt đế, và trí tuệ tỏ ngộ sự chấm dứt này là đạo đế.
Cách sắp xếp trên có thể áp dụng cho tái sanh và nghiệp hữu, nghiệp hữu và thủ, thủ và ái, ái và thọ, thọ và xúc, xúc và lục nhập, lục nhập và danh sắc, danh sắc và thức, thức và hành, hành và vô minh. Tóm lại, trong mười hai pháp này, pháp đứng ngay trước là tập đế và pháp đứng ngay sau là khổ đế. Chúng ta cũng có thể lấy vô minh làm khổ đế nếu chúng ta xem nó là quả của lậu hoặc, tức là: Dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu.
Ở đây, sự đồng nhất ái với khổ có thể không được chấp nhận đối với một số người. Nhưng điều ấy vẫn hợp lý nếu chúng ta nhớ lại sự kiện rằng tất cả danh sắc bao gồm ái có nghĩa là khổ, bởi vì nó chịu sự vô thường. Chú giải không mô tả vô minh là khổ. Nhưng chúng ta có thể nói vô minh là khổ sanh lên từ lậu hoặc, hoặc có nguồn gốc ở dục ái, sự tham luyến đời sống, tà kiến và vô minh. Chính vô minh trong quá khứ làm sanh khởi vô minh trong hiện tại. Do đó, các lậu hoặc có thể được xem là nguyên nhân của vô minh.
Bởi vậy, sau khi giác ngộ Tứ diệu đế và chứng đạt Niết-bàn, qua sự chứng ngộ của chính Ngài, Ðức Phật có hồng danh cao quí mà tất cả chúng sanh chẳng ai có được, đó là Sammàsambuddha. Ngài biết rằng tất cả pháp được bao trùm bởi giáo lý duyên khởi đều là khổ và nguyên nhân của khổ. Ngài đã sáng suốt hoàn toàn, không còn ái chấp và thoát khỏi mọi triền phược. Bởi vậy, theo bộ Thanh tịnh đạo, Ngài được gọi là Araham, bởi Ngài đã tinh tấn đoạn trừ tất cả những yếu tố phụ trợ của bánh xe luân hồi.

DANH TIẾNG CỦA ĐỨC PHẬT

Danh tiếng của Ðức Phật lan rộng khắp thế giới Sa bà. Danh tiếng ấy truyền đi khắp mọi nơi trong vũ trụ, qua những chúng sanh cư ngụ ở một số cõi mà đã đến nghe Phật thuyết pháp và qua những bài pháp mà chính Ðức Phật đã thuyết ở một số cõi hoặc qua những đệ tử trước kia của Ngài đã tái sanh vào một số cõi cao sau khi nghe những bài pháp của Ngài.
Danh tiếng của Ðức Phật truyền đi ngoài cách trên, còn có hai cách khác nữa. Trong thời gian luân hồi dai dẳng, Bồ-tát đã từng đến ở tất cả các cõi ngoài cõi Ngũ tịnh cư, là cõi chỉ dành cho những bậc đã chứng quả thánh A-na-hàm. Bồ tát chỉ chứng đắc bốn tầng thánh ở kiếp chót của Ngài. Bởi vậy, Ðức Phật trước khi thành đạo, Ngài chưa bao giờ đến cõi Ngũ tịnh cư. Nhưng khi đã thành đạo rồi, Ngài đã có lần đến đó bằng phương tiện thần thông của Ngài. Khi đến tại cõi ấy, Ðức Phật được cung kính đón tiếp bởi hằng triệu vị phạm thiên, họ đã kể cho Ngài nghe về những vị Phật quá khứ và nói rằng sự tái sanh vào Tịnh cư thiên của họ là do sự chứng đắc quả thánh A-na-hàm. Trong số những vị phạm thiên này, cũng có những vị đã thực hành theo giáo pháp của Ðức Phật.
Ðức Phật đã đến viếng tất cả năm cõi Tịnh cư thiên. Danh tiếng của Ngài vang khắp các cõi mà có những đệ tử trước kia của Ngài trú ngụ là điều dễ thấy. Những câu hỏi đặt ra là làm thế nào mà danh tiếng của Ngài thấu đến các cõi Phạm thiên vô sắc. Việc các vị Phạm thiên vô sắc đi đến Ðức Phật hoặc Ðức Phật đi đến họ là điều không thể xảy ra được. Những người đã thực hành giáo pháp của Ðức Phật ở trong cõi dục hoặc cõi hữu sắc, đã chứng ba tầng thánh đầu tiên và chết bằng tâm thiền vô sắc thì có thể tái sanh vào cõi vô sắc nếu họ muốn như vậy. Những vị thánh này biết rõ những ân đức cao quí của Ðức Phật và khả năng chứng đắc những tuệ quán mới qua sự thực hành chánh niệm. Như vậy, qua pháp niệm về tất cả danh pháp, cuối cùng họ chứng đắc đạo quả A-la-hán và nhập diệt ở cõi thức vô biên xứ hoặc cõi vô sở hữu xứ hoặc cõi cao nhất, là phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bằng cách này, danh tiếng của Ðức Phật lan rộng khắp cõi Sa-bà.

TỨ DIỆU ĐẾ TÓM LƯỢC

Chúng tôi đã bàn chi tiết về trí tuệ tỏ thông Tứ diệu đế của Ðức Phật liên quan đến ân đức Chánh biến tri. Bây giờ chúng tôi sẽ tóm lược Tứ diệu đế. Theo các bài kinh, tất cả danh sắc ở trong các cõi dục, sắc và vô sắc, ngoại trừ ái, đều tạo thành khổ đế. Ðây là đế thứ nhất. Ái là nguyên nhân của khổ, là đế thứ hai. Niết-bàn là sự chấm dứt khổ, là đế thứ ba. Thánh đạo là con đường dẫn đến sự chấp dứt, là đế thứ tư. Bốn thánh đế này được hành giả thực chứng qua pháp hành minh sát. Qua thực nghiệm, vị ấy biết rằng tất cả cái gì sanh diệt đều là khổ, sự luyến ái theo chúng là nguyên nhân, sự chấm dứt khổ và nguyên nhân của nó là Niết-bàn, và sự chứng đắc Niết-bàn là đạo.

CHÁNH BIẾN TRI VÀ ĐẠO QUẢ PHẬT

Cả hai từ Pàli "Buddha" và "Sammàsambuddha" đều có nghĩa là sự toàn tri hay trí tuệ biết rõ tất cả các pháp. Câu hỏi là làm sao chỉ ra sự khác biệt giữa hai từ trên. Về ân đức Sammàsambuddha, chúng ta nên hiểu rằng Bồ tát chứng đắc quả Phật dựa vào sự quán xét độc lập, còn sự tinh tấn và sự giác ngộ Tứ diệu đế thì qua A-la-hán đạo tuệ. Ðạo quả Phật có nghĩa là trí tuệ thông suốt các pháp hữu vi và vô vi, dựa vào những ân đức vô song của Ðức Phật như nhất thiết trí (Sabbannutànàna) v.v...
Những ân đức vô song này của Ðức Phật được tìm thấy ở trí tuệ về Tứ diệu đế, bốn loại tuệ phân tích và sáu loại trí mà được gọi là bất cộng trí (những loại trí mà các thánh đệ tử không thể có được). Sáu bất cộng trí là:
1. Trí biết rõ những cấp độ tâm linh và phước tội khác nhau của chúng sanh.
2. Trí biết rõ những ước muốn, những thiên hướng và những khuynh hướng chưa bộc phát (tùy miên) của chúng sanh.
3. Song biến trí - tức khả năng thị hiện song thông.
4. Tâm bi mẫn vô lượng đối với tất cả chúng sanh.
5. Nhất thiết trí.
6. Trí vô ngại đối với bất cứ điều gì mà Ðức Phật muốn biết hoặc cho người khác biết.
Bây giờ, xin nói về pháp hữu vi (sankhàra) và pháp vô vi (asankhàra). Pháp hữu vi là danh sắc hay ngũ uẩn, sanh khởi do sự kết hợp hài hòa của những yếu tố có liên quan. Nói cách khác, chúng là những pháp được tạo duyên bởi những điều kiện thích hợp. Như vậy, âm thanh được tạo ra khi có sự cọ sát giữa hai vật rắn như cây củi hoặc thanh sắt. Ở đây, âm thanh là pháp hữu vi. Trái ngược với pháp hữu vi là pháp vô vi, đó là pháp không liên quan gì đến các nhân. Hiện thực cùng tột duy nhất (paramattha) trong loại pháp vô vi là Niết-bàn. Trong những pháp vô vi phi thực tại cùng tột, có nhiều loại tên gọi như tên gọi về những hình thể, hình vật v.v...
Nhất thiết trí của Ðức Phật được gọi như vậy bởi vì nó bao trùm cả pháp hữu vi lẫn vô vi. Toàn bộ pháp hữu vi và vô vi gồm có: Hành (sankhàra), những đặc tánh riêng của một số sắc pháp (nipphanna), những đặc tánh có điều kiện của danh sắc, Niết-bàn và các tên gọi (names).
Hai đức tánh đầu tiên của Ðức Phật hình thành trí tuệ biết rõ những cấp độ tâm linh khác nhau, những sở thích và những căn cơ (khuynh hướng tiềm ẩn) của chúng sanh, trí tuệ ấy được gọi là Phật nhãn (Buddha cakkhu). Bằng Phật nhãn này, Ðức Phật trông thấy những chúng sanh có khả năng giác ngộ và đến thuyết pháp cho họ.
Sở dĩ chúng tôi kết luận bài trình bày về pháp duyên khởi bằng những ân đức của Phật, bởi vì chúng tôi muốn độc giả khởi niềm tin nơi Ðức Phật. Chúng tôi mong rằng quí độc giả cũng sẽ tìm thấy nguồn cảm hứng nơi các vị A-la-hán, là những bậc cũng xứng đáng với hồng danh Araham. Vị A-la-hán hoàn toàn thoát khỏi phiền não, đã phá tan bánh xe sanh tử, không có chỗ kín đáo nào để vị ấy làm điều ác và vì vậy vị A-la-hán xứng đáng được tôn kính cúng dường. Những đức tánh này tạo nên hồng danh Araham.
Bởi vậy, quí vị nên cố gắng đoạn diệt phiền não qua pháp niệm về quá trình danh sắc sanh khởi từ sáu môn, hãy đoạn diệt những yếu tố phụ trợ của bánh xe sanh tử và giữ tâm thanh tịnh luôn luôn, nhờ thế mà cuối cùng quí vị sẽ trở thành những bậc A-la-hán và có được hồng danh cao quí Araham.

TỔNG KẾT

Từ hai nguyên nhân nòng cốt được nói đến trong hai thánh đế, có sanh khởi 4 nhóm, 3 luân hồi, 3 sự nối, 12 mắc xích, 3 thời, 20 pháp và năm quá trình danh sắc. Người nào quan sát thấy rõ những quá trình cho quả hiện tại này sẽ không khởi sanh tham ái, mà nguyên nhân của nó là thọ, và nhờ vậy, vị ấy sẽ chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi.
Nói cách khác, vị hành giả quan sát mỗi quá trình danh sắc đang khởi sanh từ sáu căn tức là thấy rõ tánh chất vô thường, khổ và vô ngã của chúng. Qua sự thực hành pháp niệm một cách hiệu quả như vậy, hành giả đạt được tuệ quán về bản chất của các cảnh như sắc, thinh v.v... và chinh phục được sự ái luyến các cảnh ấy bằng sự đoạn trừ từng phần. Chấm dứt ái làm cho những pháp khác cũng hết sanh khởi, những pháp khác là thủ, hữu, tái sanh v.v... Sau sự chấm dứt này qua tuệ quán Vipassanà, hành giả diệt được ái ngũ ngầm qua sự đoạn diệt hoàn toàn khi đó vị ấy chứng đắc thánh đạo. Vào lúc này, những pháp khác như thủ v.v... cũng hoàn toàn diệt tắt.
Không có giáo lý nào mà nói rằng: Do thọ diệt, ái cũng diệt. Ðiều này không có gì lạ, bởi vì ngay cả những vị A-la-hán cũng không ngăn chặn được các thọ khi chúng khởi sanh do sự tiếp xúc của căn và cảnh.
Có những pháp thuộc danh sắc cần được quan sát và thấy như thật bản chất của chúng, là vô thường, khổ và vô ngã, nếu hành giả muốn đoạn trừ các nhân hiện tại, như ái v.v... những quả tương lai và muốn chấm dứt vòng đau khổ. Những pháp này, với cái tên bằng Pàli, được giải thích như sau:
- Thức (Vinnàna): gồm có 6 loại: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
- Danh pháp (Nàma): là các sỡ hữu sanh khởi chung với thức.
- Sắc (Rùpa): sanh chung với thức ấy. Nàma - rùpa có thể dịch là tâm và vật chất.
- Lục nhập (Salàyatana): là sáu chỗ làm nền tảng cho sự hoạt động của tâm, đó là sáu nội xứ, gồm thức và năm cơ quan xúc giác, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân và sáu ngoại xứ gồm: hình sắc, âm thanh, mùi, vị, vật xúc chạm và cảnh của tâm.
- Xúc (Phassa): gồm có sáu loại: Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.
- Thọ (Vedanà): gồm có ba loại: Thọ lạc, thọ khổ và thọ xả. Chúng ta cũng có thể phân ra sáu loại thọ: Thọ kết hợp với sự thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm của thân và thọ do sự xúc chạm của ý.
Hai nhân chính yếu:
Vô minh và ái.
Hai chân lý:
Chân lý về khổ và chân lý về nguyên nhân của khổ (ái).
Bốn nhóm:

1- Nhóm gồm những nhân quá khứ: Vô minh, nghiệp hành, ái, thủ và nghiệp hữu.
2- Nhóm gồm những quả hiện tại: Thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ.
3- Nhóm gồm những nhân hiện tại: Ái, thủ, nghiệp hữu, vô minh và nghiệp hành.
4- Quả tương lai: Sanh, lão, tử v.v...
Ba luân hồi:

1- Phiền não luân hồi: vô minh, ái, thủ.
2- Nghiệp luân hồi: nghiệp hành và nghiệp hữu.
3- Quả luân hồi: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão và tử.
Ba sự nối:

1- Sự nối giữa nghiệp hành là nhân quá khứ và thức là quả hiện tại.
2- Sự nối giữa thọ là quả hiện tại và ái là nhân hiện tại.
3- Sự nối giữa hữu là nhân hiện tại và sanh là quả tương lai.
Mười hai mắc xích:

1- Vô minh.
2- Nghiệp hành.
3- Thức.
4- Danh sắc.
5- Lục nhập.
6- Xúc
7- Thọ.
8- Ái.
9- Thủ.
10- Nghiệp hữu.
11- Sanh.
12- Lão và tử.
Ba thời:

1- Quá khứ bất định: Vô minh và nghiệp hành.
2- Hiện tại bất định: Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, quá trình nghiệp.
3- Tương lai bất định: Tái sanh, lão và tử.
Hai mươi yếu tố:

- Năm yếu tố của quá trình tạo nhân trong kiếp quá khứ.
- Năm yếu tố của quá trình cho quả trong kiếp hiện tại.
- Năm yếu tố của quá trình tạo nhân trong kiếp hiện tại.
- Năm yếu tố của quá trình cho quả trong kiếp vị tại.

                                                                               -[Hết]-


Nguồn: budsas.org

0 nhận xét:

Đăng nhận xét