Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

PHẬT GIÁO, NHÌN TOÀN DIỆN - CHƯƠNG 4: CON ĐƯỜNG TÍCH CỰC CỦA ĐỨC PHẬT (PHẦN 2)

Chánh Tinh Tấn

Giới hạnh là giai đoạn đầu tiên trên Con Ðường Giải Thoát. Kế tiếp là trau giồi tâm trí, hay định (samàdhi), bao gồm ba chi của Bát Chánh Ðạo: chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Chánh tinh tấn (sammà-vàyamà) là kiên trì gia công nỗ lực để:

(a) ngăn ngừa những tư tuởng xấu xa và bất thiện chưa phát sanh, không để cho phát sanh,
(b) xua đuổi, diệt trừ các tư tưởng xấu và bất thiện mà đã phát sanh,
(c) khai triển và trau giồi những tư tưởng thiện chưa phát sanh, và
(d) cải tiến và bảo tồn những tư tưởng thiện đã phát sanh.

Như vậy, chức năng của chi thứ sáu này là kiên trì, gia công kiểm soát những tư tưởng bất thiện và khai triển, bảo tồn những tư tưởng trong sạch và thiện. Người đã vững chắc làm chủ lời nói và hành động do nhờ giới (sìla), giờ đây nỗ lực quán chiếu tận tường tư tưởng và những trạng thái tâm.

Ðức Phật mãnh liệt quan tâm đến chi thứ sáu này của Con Ðường -- chánh tinh tấn -- bởi vì tự bản thân Ngài không có quyền năng cứu ai hết, mà chính mỗi người phải tự mình nỗ lực. Mặc dầu lúc nào cũng sẵn sàng hướng dẫn người khác tiến bước trên con đường, khuyến khích và nâng đỡ tinh thần kẻ khác, nhưng Ngài không phải là nhân vật cứu thế và không thể bảo đảm sẽ cứu ai vượt khỏi đau khổ, tháo gỡ những trói buộc của vòng luân hồi (samsàra). Ý niệm rằng có ai đó có thể đem người khác từ thấp lên tầng lớp cao hơn và cuối cùng cứu hẳn họ, có chiều hướng làm cho con người nhu nhược, uể oải biếng nhác, và kém suy tư. Nó làm suy giảm giá trị và lu mờ phẩm cách của con người trên mọi phương diện.

Thái độ của Ðức Phật, đặt nặng trọng tâm nơi chánh tinh tấn, chỉ rõ rằng Phật Giáo không phải là một giáo huấn bi quan yếm thế để cho những tâm hồn ươn yếu, mà là tôn giáo của hạng chiến sĩ tinh thần thật sự, của người nhất quyết mở đường tự giải thoát. Dầu là tiến bộ trong thế gian trần tục như lợi lạc và quyền thế, cũng đều phải tùy thuộc nhiều vào sự nỗ lực của ta. Như vậy, càng cần nỗ lực hơn nữa để rèn luyện tâm tánh và trau giồi những gì tốt đẹp cao cả nhất bên trong ta. Vì công trình rèn luyện tâm tánh đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, hãy gia công từ giờ phút này. "Không nên để ngày tháng trôi qua như cái bóng của đám mây, không lưu lại dấu vết gì phía sau để nhắc người ta nhớ đến."

Chánh Niệm

Chánh niệm (sammà-sati), giai đoạn kế tiếp của con đường, áp đặt sự hay biết vào, hay làm cho tâm giác tỉnh chăm chú vào:

(a) sinh hoạt của thân (kàyànupassanà, niệm thân),
(b) thọ, hay những cảm giác (vedanànupassanà, niệm thọ),
(c) những trạng thái tâm (cittanupassanà, niệm tâm), và
(d) các đối tượng của tâm (dhammànupassanà, niệm pháp).

Thời Pháp được biết nhiều về "Sự Củng Cố Chú Niệm" (satipatthàna-sutta) đề cập rành mạch đến bốn niệm xứ này.

Vì các chi của con đường tùy thuộc lẫn nhau, chánh tinh tấn hỗ trợ chánh niệm. Cùng chung với nhau, hai chi này -- chánh tinh tấn và chánh niệm -- hợp sức kiểm soát, không để cho ác pháp phát sanh. Người tỉnh thức luôn luôn hay biết hành động của thân và khẩu mình, tránh xa những gì gây tổn hại cho tiến bộ tinh thần của mình. Con người như thế ấy không thể để tâm lười biếng và dã dượi. Sự chú niệm, trạng thái hay biết đầy đủ và hiểu biết rõ ràng, là hai yếu tố chánh giúp công phu hành thiền thành tựu mỹ mãn. Người mà lúc nào cũng chú niệm đã ở trước cổng của trạng thái Bất Diệt. Một diễn biến có nhiều ý nghĩa là trước giờ Nhập Niết Bàn, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của công phu chú niệm, lời di huấn tối hậu của Ðức Phật là: "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Hãy tận lực gia công chú niệm" (vayadhammà samkhàrà appamàdena sampàdetha) -- (Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, 16).

Không ngừng chú niệm và luôn luôn giác tỉnh là hai công trình rất thiết yếu để tránh làm điều bất thiện và cố làm điều thiện. Tư tưởng và cảm xúc của chúng ta lúc nào cũng cần phải được trông nom chăm sóc để hướng về con đường trong sạch (Thanh Tịnh Ðạo). Chính nhờ kiên trì canh phòng hay biết như vậy mà ta chứng nghiệm tiến bộ tinh thần.

Học nhiều không đem lợi ích gì cho người học nếu học mà không chú niệm. Không có niệm, đức tánh tối trọng yếu này, dầu học rộng biết nhiều cũng không thể thấy sự vật đúng trong bối cảnh của nó. Người có địa vị cao sang mà ăn nói không suy tư và không lượng định hậu quả của lời nói, thường bị chỉ trích nặng nề và đúng lý. Có lời tục ngữ rằng: "Lời đã thốt ra, cơ hội đã mất, và như mũi tên bắn đi, không bao giờ có thể thâu hồi lại được."

Pháp hành thiền được thành tựu tốt đẹp nhờ ba yếu tố căn bản phối hợp: tinh tấn, niệm và định. Ba chi này hợp thành ba tao nhợ của sợi đỏi. Tuy nhiên, niệm được xem là tao nhợ vững chắc nhất, bởi vì niệm đóng vai trò trọng yếu nhất trong cả hai, thiền vắng lặng và thiền minh sát (samatha và vipassanà). Chú niệm là một chức năng của tâm và như vậy, là một yếu tố tâm, tức tâm sở. Ðược gọi là chánh niệm vì nó lánh xa sự chú tâm sai lạc và ngăn ngừa, không để tâm chăm chú vào đối tượng lầm lạc. Niệm hướng dẫn người có chánh niệm đi đúng trên con đường dẫn đến trong sạch và tự do.

Chánh niệm phải được áp đặt vào tất cả và mỗi hành động. Trong mọi cử động, người hành thiền phải luôn luôn giác tỉnh chú niệm. Dầu đi, đứng, hay ngồi, dầu nói năng hay im lặng, ăn uống hay đại tiện, tiểu tiện -- trong những công việc ấy và trong tất cả những hoạt động khác, phải luôn luôn thức tỉnh và chú niệm. "Chú niệm, này hởi các tỳ khưu, Như Lai tuyên ngôn, là chánh yếu trong tất cả và ở mọi nơi."

Nơi đây phải ghi nhận rằng trong kinh điển Phật Giáo danh từ Niệm (sati) thường được dùng chung với một danh từ khác cũng có ý nghĩa ngang nhau, "hiểu biết rõ ràng" (sampajanna). Từ ngữ sati-sampajanna, niệm và hiểu biết rõ ràng, thường đi chung với nhau trong các bài kinh và mật thiết hỗ trợ lẫn nhau.

Cũng như người kia đi từ ngoài trời sáng vào một phòng tối, lúc đầu bị chóa mắt, rồi dần dần phân biệt nhận ra các món đồ trong phòng, cũng dường thế ấy, người chú niệm đầy đủ và hiểu biết rõ ràng, càng lúc càng thấy rõ hơn bản chất thật sự của sự vật, vốn bị che đậy dưới lớp mây mờ vô minh, nhưng chánh niệm giúp khai triển tuệ minh sát và chánh kiến.

Trong bài kinh "Niệm Xứ" (satipatthàna), các đoạn mô tả mỗi niệm xứ đều chấm dứt bằng những chữ: "Vị ấy sống độc lập, không bám níu vào bất luận gì trên thế gian. [15]" Ðó là thành quả mà người hành thiền nhắm đến, một thành tựu thiết tha mong muốn, và lúc nào cũng kỳ vọng tiến đạt. Rất khó mà không bám níu gì trên thế gian, và những cố gắng của ta để tiến đến tầng lớp cao thượng ấy có thể không đem lại kết quả trong tức khắc. Tuy nhiên, nó đáng cho ta kiên trì cố gắng thêm ... và thêm nữa. Một ngày nào, nếu không phải trong kiếp này thì trong một kiếp sống khác, ta có thể tiến đến tận đỉnh cao mà tất cả những ai thật sự nỗ lực đã đến. "Hãy gieo một ý tưởng", có người nói như vậy, "và bạn sẽ gặt hái một hành động. Hãy gieo một hành động, và bạn sẽ gặt hái một thói quen. Hãy gieo một thói quen, và bạn sẽ gặt hái một tâm tánh. Hãy gieo một tâm tánh, và bạn sẽ gặt hái một định mạng -- bởi vì tâm tánh là định mạng."

Chánh Ðịnh

Chánh định (sammà-samàdhi), chi thứ tám của con đường, là trạng thái tâm tập trung vững chắc, giống như ngọn đèn không chao động, ở một nơi không có gió. Ðịnh (samàdhi) kềm giữ tâm ngay ngắn và ở yên một điểm, không lay chuyển và không xao xuyến. Pháp hành đúng giữ tâm trong một trạng thái quân bình. Người hành thiền gặp phải nhiều chướng ngại tinh thần, nhưng nhờ chánh tinh tấn và chánh niệm hỗ trợ, hành giả có thể vượt qua và đạt đến tâm định hoàn toàn. Một cái tâm hoàn toàn an trụ không bị ngoại cảnh, những đối tượng của giác quan, khuấy động và thấy đúng thực tướng của sự vật.

Pháp hành thiền trong Phật Giáo được chia làm hai hệ thống, tâm định hay vắng lặng (samàdhi, samatha) và minh sát (vipassanà). Trong hai pháp này, tâm định có tác dụng làm cho tâm tĩnh lặng, và do đó danh từ samatha hay samàdhi ở vài nơi được dịch là vắng lặng, yên tĩnh hay tĩnh lặng. Làm cho tâm tĩnh lặng hàm xúc ý nghĩa gom tâm, tập trung tâm vào một điểm duy nhất hay "nhất điểm tâm", thu hẹp tâm chăm chú vào một đề mục, không còn thấy gì khác ngoài đề mục ấy.

"Tâm định là gì? Dấu hiệu của tâm định là gì? Cần phải có gì mới định tâm? Làm thế nào để phát triển tâm?

"Bất cứ gì là trạng thái gom tâm vào một điểm, đó là định tâm; bốn trường hợp phát sanh của niệm là dấu hiệu của tâm định; bốn tinh tấn là những gì cần phải có để định tâm; bất cứ gì là pháp tu tập, là sự phát triển, là sự tăng trưởng những điều ấy, đó là phát triển tâm định." [16]

Những lời dạy trên rõ ràng chỉ rằng ba chi của nhóm định (samàdhi) -- tức chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định -- cùng sinh hoạt chung với nhau để tạo tâm định thật sự.

Hiện nay nhiều người xem tự do và không tự kềm chế là đồng nghĩa. Khuynh hướng vật chất của nền văn hóa hiện đại, nặng về phần nhục dục, làm cho họ tin rằng công trình tự rèn luyện tâm tánh là một trở ngại, làm cho con người không thể phát triển trọn vẹn. Tuy nhiên, giáo huấn của Ðức Phật thì khác hẳn. Ðức Phật tuyên ngôn rằng phải tự khắc phục lấy mình, tự thuần hóa và rèn luyện đúng theo chiều hướng chân chánh mới có thể trở thành thật sự tốt đẹp. Phải canh phòng, không để cho những tư tưởng tham, sân, si phát sanh -- đó là con đường dẫn đến an lạc và hạnh phúc thật sự.

Chỉ đến khi tâm được kiểm soát và kềm giữ đúng theo con đường chân chánh của sự tiến bộ có trật tự nó mới trở thành hữu dụng, cho người làm chủ nó và cho xã hội. Một cái tâm hoang dại, buông lung và vô trật tự là một gánh nặng, cho người làm chủ nó và cho nhiều người khác. Tất cả những tai họa tàn khốc trên thế gian đều đã được gây nên bởi những nguời không có học phương pháp kiểm soát tâm, làm cho tâm quân bình và trầm tĩnh. Kiểm soát tâm là cái chìa khóa để mở lối vào hạnh phúc. Ðó là vị chúa tể của giới hạnh và động lực nằm phía sau mọi thành tựu thật sự mỹ mãn. Chính vì thiếu kiểm soát mà bao nhiêu xung đột đã nổi dậy trong tâm con người.

Muốn kiểm soát tâm, con người cần phải học hỏi làm thế nào để không buông lơi thả lỏng những khát vọng và những chiều hướng tâm tánh hoang dại của mình và phải cố gắng sống cuộc đời tự kềm chế, trong sạch và an tĩnh.

Trầm tĩnh không phải là yếu hèn. Một thái độ trầm tĩnh lúc nào cũng cho thấy là con người thấm nhuần văn hóa. Nghĩ rằng chỉ có người ồn ào, gây gổ và lăn xăn mới hùng mạnh thì quả thật là sai lầm.

"Ðúng vậy, trống rỗng thì kêu to, 
Nhưng đầy thì trầm lặng; 
Kẻ ngu như cái lọ vơi nước, 
Người trí như ao hồ." 
-- Sutta Nipàta, v, 721.

Người có trau giồi đức hạnh trầm tĩnh ít khi cảm nghe bực dọc phiền toái lúc phải đương đầu với những thăng trầm của đời sống. Người ấy cố gắng nhìn sự vật đúng trong bối cảnh của nó, khởi phát như thế nào và tan biến làm sao. Không lo âu và không bị khuấy động, người ấy cố gắng nhận thức đặc tánh phù du tạm bợ của những gì vốn là tạm bợ phù du. "Những tâm hồn tĩnh lặng ... tiếp tục tiến bước, khi may mắn cũng như trong hoàn cảnh bất hạnh, đều đặn cùng một nhịp, như cái đồng hồ trong cơn sấm sét" (R.L. Stevenson).

Dầu bao nhiêu lập luận về phương pháp làm cho tâm vắng lặng và cho cuộc sống trở nên toàn hảo cũng không đưa chúng ta đến mục tiêu mong mỏi; nhưng mỗi hành động buông xả thật sự, mỗi cố gắng để tách rời chúng ta ra khỏi những đối tượng của ái dục, dẫn đến trạng thái tĩnh lặng và trong sáng.

Con đường mà Ðức Thế Tôn chỉ dạy để làm cho nội tâm trưởng thành là hành thiền. Tất cả những phương pháp hành thiền được đề cập đến trong Phật Giáo đều dẫn đến sức khỏe nội tâm, không bao giờ đến ươn yếu, bởi vì tất cả đều loại trừ những tình trạng căng thẳng làm cho tâm bệnh hoạn, và rửa sạch những bợn nhơ của tâm.

Tư tưởng thật sự quan trọng chỉ có thể tăng trưởng trong những khoảng thời gian yên tĩnh lâu dài. Hoàn cảnh cô đơn giúp làm cho tâm lớn mạnh và hùng dũng. Năng lực sáng tạo to lớn nhất được un đúc trong tình trạng im lặng, nhưng thông thường người ta thích tiếng động hơn. Phần đông người ta say mê trong công cuộc làm ăn hằng ngày và xem thường tầm quan trọng của công trình yên lặng lắng tâm suy niệm. Khi ẩn rút vào yên lặng ta tuyệt đối đơn độc một mình, tự do quán chiếu và nhận thấy chính mình như thật sự mình là vậy; ta trực diện với thực tại và chừng đó có thể tu tập sửa sai những khuyết điểm và thiếu sót của ta. Nhưng thường ngày ta mãi lo bận rộn quây quần giống như con sóc chạy vòng vòng trên cái đu của nó, quay tròn trong cái lồng -- mặc dầu rất nhanh nhẫu hoạt động, nhưng chỉ quay tròn bên trong cái lồng. Con gà mái ấp trứng, dầu thấy hình như bất động và uể oải biếng nhác, nhưng đang làm một việc hữu ích: nó ôm ấp chuyền hơi nóng, làm cho trứng nở ra gà con. Ta phải cố gắng dành ít nhất là nửa tiếng đồng hồ mỗi ngày, làm công chuyện con gà mái ấp trứng. Công phu hành thiền phải được tiếp tục đều đặn, đúng giờ, trong một thời gian lâu dài. Không nên trông đợi kết quả nhanh chóng, bởi vì chuyển biến tâm linh chỉ xảy diễn rất chậm chạp. Chính nhờ yên lặng tu tập suy niệm mà ta có thể thành tựu hoàn mãn một cái tâm tĩnh lặng -- atta manasà (cái tâm của chính mình) là tên của một trạng thái tâm hạnh phúc, thành quả của công trình cố gắng tu tập và thành tựu. Nhưng trạng thái tâm khốn khổ, chìm đắm trong những tư tưởng tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, ganh tỵ v.v... là anatta manasà (tâm của kẻ khác).

Trí Tuệ Thật Sự

Ðã nắm vững, làm chủ tâm mình do nhờ định tâm (thiền vắng lặng), giờ đây hành giả trau giồi trí tuệ thật sự (pannà), gồm hai chi đầu của Bát Chánh Ðạo, chánh kiến và chánh tư duy, giai đoạn cuối cùng của con đường.

Chánh tư duy (sammà-samkappa), suy tư chân chánh, bao gồm những tư tưởng từ khước, buông xả (nekkhamma samkappa), thiện ý, không thù hận (avyàpàda samkappa) và bi mẫn, không hung tợn (avihimsà samkappa). Những tư tưởng này phải được trau giồi và ban rải cùng khắp tất cả chúng sanh không phân biệt dòng giống, chủng tộc, giai cấp, bộ lạc, nam nữ hay tín ngưỡng. Những tư tưởng này phải bao trùm tất cả chúng sanh có hơi thở, không có hạn chế gia giảm nào. Người ích kỷ, chỉ biết mình, không thể ban rải những tư tưởng cao cả như vậy. Nếu nhận thức sự vật với tâm quan sát không thiên tư ta sẽ hiểu rằng ham muốn ích kỷ, sân hận và hung bạo không thể đi chung với trí tuệ thật sự. Chánh kiến hay trí tuệ thật sự lúc nào cũng thấm nhuần những tư tưởng chân chánh, không bao giờ tách rời. Ðàng khác, chánh tư duy, suy tư chân chánh, là hậu quả của chánh kiến. Cả hai -- chánh kiến và chánh tư duy -- hợp thành nhóm tuệ, được đề cập đến trong phần Bát Chánh Ðạo. Suy tư đúng, chánh tư duy, là hậu quả của lối nhìn sự vật đúng như sự vật là vậy.

Tư tuởng quả thật rất quan trọng vì thân nghiệp và khẩu nghiệp đều bắt nguồn từ tư tưởng. Chính tư tưởng được diễn đạt thành lời nói và hành động. Hậu quả của những lời ta nói và những việc ta làm thiện hay bất thiện, xấu hay tốt, chỉ tùy thuộc nơi lối suy tư của ta. Do đó, tu tập suy tư chân chánh, thay vì quanh co bất chánh và không chừng đổi, thật vô cùng trọng yếu.

Giờ đây chúng ta thử tìm hiểu tầm quan trọng của công trình diệt trừ những tư tưởng bất thiện và phương pháp áp dụng để thành tựu hoàn mãn công trình ấy bằng cách thực hành chân chánh các pháp từ khước, thiện ý và bi mẫn. Khi tâm mãi mê say đắm trong khát vọng hay sân hận, ắt ta không thể thấy rõ sự vật. Nhưng diệt trừ những trở ngại ấy không có nghĩa là tranh đấu với những tư tưởng bất thiện đang bám chặt vào tâm. Phải tu tập để diện đối diện, thấy rõ những tư tưởng ấy -- nó khởi phát, xuất hiện trở lại và áp đảo, khắc phục tâm ta như thế nào; phải nghiên cứu học hỏi bản chất của nó. Giờ đây, nếu ta để cho tâm liên tục ôm ấp dưỡng nuôi những tư tưởng tham ái và sân hận, không cố gắng kiểm soát nó, những tư tưởng bất thiện ấy sẽ tăng trưởng lớn mạnh và khuynh đảo, làm chủ tâm. Nhưng nếu thật sự quyết tâm diệt trừ nó, ta nỗ lực dần dần, trau giồi và phát triển những tư tưởng thiện. Thiện pháp này sẽ phản công các pháp bất thiện. Thí dụ như khi ta bị tham dục khuấy động, những tư tưởng từ khước, buông bỏ, sẽ đem lại trạng thái tâm thanh bình an lạc. Cùng thế ấy, thiện ý và bi mẫn sẽ thoa dịu những tư tưởng ác ý, sân hận, hung tợn và thù hằn. Tuy nhiên, không phải là dễ nắm vững, làm chủ cái tâm của mình. Cần phải tận lực quyết tâm và gia công cố gắng.

Trong Phật Giáo, thiện ý (avyàpàda) hàm xúc tình thương không thiên về xác thịt. Trong giới Phật tử, danh từ thông dụng để nói thiện ý là tâm từ (mettà), hay danh từ sanskrit (Bắc Phạn) là maitrì. Tình bằng hữu, lòng tốt, tình thương đại đồng, và lòng từ ái, hay tâm từ, là những chữ thường được dùng nhất. Mettà, tâm từ, là lòng thành thật mong muốn cho tất cả chúng sanh, không có hạn định hay phân biệt nào, đều được an lành hạnh phúc.

Lòng bi mẫn (avihimsà) chắc chắn không phải là trạng thái cảm xúc yếu mềm. Ðây là đức tánh dũng mãnh và bền bỉ. Khi có một người đang khốn khổ. Chính quả tim trắc ẩn của người bi mẫn đập mạnh và thúc đẩy người ấy cứu vớt kẻ lâm nạn và nơi đây, tâm cần phải có sức mạnh. Có người hấp tấp cho rằng bi mẫn là dấu hiệu của tính yếu hèn bởi vì bi mẫn là dịu hiền, mềm mỏng. Những người ấy không biết họ đang nói gì. Theo họ, tàn ác chắc đúng thật là dấu hiệu của tâm dũng mãnh.

Chánh kiến (sammà-ditthi), trong ý nghĩa cùng tột, là hiểu biết thực tướng của đời sống. Muốn được vậy, phải rõ ràng thông suốt Tứ Diệu Ðế. Thấu hiểu những chân lý này là thông suốt những điểm phức tạp của thiên nhiên. "Người thấu triệt trọn vẹn những chân lý này thật sự được gọi là 'sáng suốt chứng ngộ'." [17]

Chánh kiến quan trọng hơn tất cả, bởi vì hướng dẫn bảy chi còn lại của Bát Chánh Ðạo [18]. Chánh kiến kiện toàn chánh tư duy, làm cho suy tư được bảo đảm, và phối hợp các ý nghĩ. Khi những suy tư và ý nghĩ trở thành rõ ràng và thiện thì việc làm và lời nói cũng xuôi chiều theo sự hướng dẫn ấy: một lần nữa, chánh kiến thúc đẩy ta từ bỏ những cố gắng vô ích và trau giồi chánh tinh tấn để chánh tinh tấn hỗ trợ, phát triển chánh niệm. Chánh tinh tấn và chánh niệm, được chánh kiến hướng dẫn, tạo điều kiện cho các chi khác của hệ thống dung hợp thích nghi.

Người đọc thận trọng giờ đây có thể hiểu biết ba nhóm giới, định và tuệ, dung hoà tương trợ lẫn nhau như thế nào để cùng chung tiến đến mục tiêu, giải thoát cái tâm (cetovimutti). Do nhờ thật sự trau giồi tâm và kiểm soát thân, khẩu mà hành giả thành đạt trạng thái trong sạch. Do nhờ tự mình gia công, tự mình phát triển, hành giả tiến đến tự do. Ðó là Giáo Pháp mà Ðức Phật khám phá, tự Ngài áp dụng để chứng đắc trạng thái Toàn Giác, và giáo hóa người khác.

Từ xa xưa trong quá khứ, thế gian có nhiều vấn đề. Mỗi thời đại có vấn đề của nó, và thái độ của chúng ta đối với các vấn đề ấy có phần khác biệt nhau; và nhiều giải pháp đã được đem ra áp dụng. Bát Chánh Ðạo thâu hẹp các vấn đề, gom lại thành một mà Ðức Phật gọi là dukkha, vấn đề đau khổ. Ngài giải thích rằng nguyên nhân đưa đến vấn đề ấy là avijjà, vô minh, và tanhà, ái dục, khát vọng vị kỷ. Ngày nay, vấn đề là: con người hiện đại đã tìm ra giải pháp chưa, hay chỉ làm cho nó trở nên trầm trọng thêm? Hiện nay con người có sống trong trạng thái an toàn và hạnh phúc không, hay vẫn mãi mãi lo sợ và luôn luôn căng thẳng? Họ đang đi trên con đường dẫn đến trạng thái tâm lành mạnh hay đang đi đến điên rồ? Giờ đây, thử nhìn xem Trung Ðạo là con đường gì? Nó bao gồm tám chi: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Có chi nào trong đó mà ta có thể gác bỏ qua một bên vì nó lỗi thời và không dẫn đến tiến bộ vật chất hay tinh thần không? Có chi nào gây trở ngại cho tình trạng phát triển tốt đẹp của con người, phàm tục hay gì khác không? Chắc chắn là chỉ người đầu óc đầy bùn nhơ mới có thể gọi Bát Chánh Ðạo là lỗi thời bởi vì, mặc dầu là xưa cũ, pháp ấy lúc nào cũng vẫn tươi trong mát dịu. Tất cả những vấn đề của đời sống đang dồn dập tấn công con người có thể thâu gọn lại thành vấn đề duy nhất, dukkha, đau khổ, xung đột, hay bất toại nguyện. Giải pháp cho vấn đề ấy mà chư Phật hay các đấng Toàn Giác trong các thời đại ban truyền là giáo huấn Bát Chánh Ðạo. Cũng như có ăn mới chứng minh được món ăn là ngon, cùng thế ấy, phải thực hành mới có thể chứng minh giải pháp là đúng.

Bát chánh Ðạo của Ðức Phật được mở rộng cho tất cả. Không có sự phân biệt trong Niết Bàn. Ðề cập đến con đường và so sánh nó với chiếc xe, Ðức Bổn Sư dạy:

"Và dầu đó là người nữ, dầu là người nam 
Chiếc xe ấy vẫn đợi chờ, cùng một chiếc xe ấy, 
Sẽ chở vào Niết Bàn." 
-- Kindred Sayings, i, trang 45.

T.W. Rhys Davids, vị Chủ Tịch Sáng Lập Viên hội Pali Text Society tại London viết:

"Dầu là Phật tử hay không, tôi đã khảo sát các hệ thống tôn giáo lớn trong thế gian, từng hệ thống một, không có ở đâu tìm ra điều gì tốt đẹp hơn và đúng lý hơn Bát Chánh Ðạo của Ðức Phật. Tôi tự nguyện uốn nắn đời sống mình đúng theo con đường ấy."

"Hãy từ ái và bi mẫn 
Và khéo thu thúc trong giới hạnh, 
Hãy gia công nỗ lực, hướng về mục tiêu, 
Và tiến bước, luôn luôn can đảm tiến lên.

Hiểm họa nằm trong sự dể duôi uổng phí thì giờ, 
Công phu kiên trì nỗ lực chắc chắn và an toàn: 
Ðiều ấy khi ta thấy, 
Rồi trau giồi Bát Chánh Ðạo, 
Ta sẽ chứng ngộ, và như vậy 
Làm cho Con Ðường Bất Diệt là của chính ta." 
-- Psalms of the Brethen, 979, 980.

Chú thích:

[1] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, i,13.

[2] Itivuttaka, I, ii,v.

[3] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, I, 40.

[4] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, v, 420; Vinàya Pitaka, Tạng Luật, I, 10.

[5] Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, bài kinh số 16.

[6] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, iii, 254.

[7] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 27.

[8] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 100.

[9] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, I, 261

[10] Mark Gilbert, Wisdom of the Ages (London: 1948), trang 48.

[11] John Walters, Mind Unshaken (London: Rider & Co., 1961), trang 47.

[12] Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, ii, 178.

[13] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, i, 100.

[14] Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, ii, 17.

[15] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, v, 115.

[16] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 44/l. 301.

[17] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 43/l. 292.

[18] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 117/lll. 76.

-ooOoo-

0 nhận xét:

Đăng nhận xét