Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

PHẬT GIÁO, NHÌN TOÀN DIỆN - CHƯƠNG 5: SUY GẪM VỀ PHẬT NGÔN (Phần 2)

Nguyên Nhân Ðạo Ðức

Tôn giáo là cái gì người ta phải đến gần bằng lý luận và suy tư. Nếu, sau khi nghiên cứu tận tường, lời dạy nào cảm xúc thuận chiều với tâm và trí ta, hãy chấp nhận những nguyên tắc của nó vào lối sống mình. Cố gắng theo một tín ngưỡng khi không có lý do để mình thỏa mãn với tín ngưỡng ấy thì quả thật là điên rồ. Ta phải ngay thẳng. Phải thành thật với mình và với kẻ khác. Tự phỉnh gạt mình sẽ dẫn đến xung đột tâm lý và bất hạnh. Trong sự lựa chọn tôn giáo, không ai có quyền dẩm chân lên tự do của kẻ khác. Tự do tư tưởng là quyền của mỗi người từ lúc vào đời. ép buộc người khác đi lệch ra ngoài lối sống vốn thích hợp với tâm tánh và quan niệm họ, khuynh hướng và chiều hiểu biết của họ, quả thật là sai lầm. Cưỡng bách, dầu với hình thức nào, vẫn là tệ hại. Cưỡng bách một người phải theo tín ngưỡng mà người ấy không thích là loại cưỡng bách đen tối nhất. Cáng họng, bắt buộc người ta phải nuốt như vậy không thể là tốt đẹp cho bất cứ ai, bất cứ ở đâu.

Con người phải được phép trưởng thành theo đường lối nào sẽ đem lại cho họ sự mở mang tốt đẹp nhất. Mọi ép buộc nhằm khép tư tưởng vào một khuôn khổ nhất định là trực tiếp xen vào sự rộng mở tâm trí ấy. Người Phật tử xem sự dẩm chân như thế ấy là loại hẹp hòi tồi tệ nhất.

Tự thanh lọc, làm cho mình trở nên trong sạch, không phải do một nguyên lý ngoại lai nào mà chỉ đến với người tự do suy gẫm những vấn đề của chính mình mà không bị trắc trở hay chướng ngại. Những người khác có thể hỗ trợ nếu ta sẵn sàng nhận lãnh hay mong tìm được giúp đỡ. Hạnh phúc cao thượng nhất chỉ có thể đến do tự mình hiểu biết, tự mình chứng ngộ, tự mình thức tỉnh và lãnh hội chân lý. Ta phải gia công cố gắng thích nghi, phá vỡ những xiềng xích đã trói chặt chúng ta từ thủa nào và thoát đến tự do, vượt ra khỏi mọi sầu muộn bằng cách kiên trì tận lực chuyên cần, chớ không phải do nhờ trung gian của ai khác. Chư Tăng Phật Giáo không phải là những vị tu sĩ trung gian để hành lễ và cử hành những nghi thức cúng tế, không ban hành phép lành và rửa sạch tội lỗi. Một vị tỳ khưu lý tưởng không đứng ra làm trung gian giữa con người và một quyền lực siêu nhiên, bởi vì Phật Giáo dạy rằng mỗi cá nhân, dầu tăng sĩ hay thiện tín, chỉ đơn độc đảm nhận trách nhiệm thành đạt giải thoát cho mình. Do đó, không cần cầu cạnh ân huệ của một tu sĩ trung gian.

"Hành ác do ta, 
Do chính ta, ta phải chịu đau khổ, 
Ngưng hành động sai lầm do ta, 
Trở nên trong sạch do chính ta. 
Không ai cứu ta, ngoài chính ta, 
Không ai có thể, và không ai có quyền năng; 
Chính chúng ta phải tiến bước trên Con Ðường, 
Chư Phật chỉ rọi sáng con đường."

Chính Ðức Phật, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, dạy rằng có thể giải thoát mà không cần thiết phải có một đấng cứu thế. Bằng những lời dạy và gương lành trong sạch Ngài giáo huấn lối sống chuyên cần, "Hãy gia công thành tựu giải thoát với chú niệm" (appamàdena sampàdetha) là di huấn tối hậu của Ðức Bổn Sư.

Mỗi chúng sanh là tạo hóa của mình; ngoài hành động của chính ta không thấy có tạo hóa nào khác trong thế gian. Bằng hành động ta tạo tâm tánh, cá thể, và tư cách cá nhân của mình. Tất cả chúng ta đều do mình tự tạo. Do đó Ðức Phật dạy rằng "Chúng ta là thừa kế của chính hành động của ta, là người mang theo với mình hành động của mình, hành động của chúng ta là thai bào từ đó chúng ta được sanh ra đời," (Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, 135) và chúng ta phải trở nên tốt hơn, chỉ bằng cách sửa đổi hành động, tự tạo trở lại và thành đạt giải thoát, vượt ra khỏi mọi khổ đau. Có thể có phương cách nào khác chăng? Nếu xuyên qua vô minh và ái dục chúng ta mãi lạc bước, thênh thang trong đêm tối dài dẳng của vòng luân hồi mà không tự uốn nắn mình, thì làm sao có sự khác biệt lớn lao và những điểm dị đồng như thế giữa những chúng sanh mà ngày nay ta nhận thấy trong thế giới.
Giáo lý nghiệp báo (kamma), vốn là giải đáp duy nhất hợp lý nhằm giải thích toàn thể khối đau khổ gọi là thế gian, không thể bị loại bỏ. Ngoài lý nghiệp báo, tất cả những lối giải thích về kiếp sinh tồn luôn luôn biến đổi này hoàn toàn không thỏa đáng, bởi vì không chú trọng đến chức năng thật sự của phần tâm linh (nàma, danh), tuy vô hình, không thể sờ đụng, nhưng là yếu tố quyết định trong tiến trình trở thành (bhava, hữu). Nhưng khi chúng ta nhìn kiếp sống vô thường không ngừng biến chuyển này, mà phần chánh được uốn nắn do định luật nhân quả trong sắc thái tiềm ẩn của tiến trình tâm, ta hiểu biết chắc chắn rằng cái khuôn đúc tạo hình cho đời sống là vô minh, và vô số hình thức biến đổi vô thường là biểu hiện của nhiều loại ái dục đủ màu sắc, thúc giục và lôi cuốn tất cả, từ kiếp này sang kiếp khác, khởi sanh rồi hoại diệt, như bong bóng nước trong đại dương mênh mông của vòng luân hồi.

Chừng đó, ta nhận thức ý nghĩa của định luật nhân quả xuyên qua những hiện tượng trở-thành-trở-lại, tức tái sanh: chúng ta đang gặt hái những gì chính mình đã gieo trong quá khứ; đôi khi ta cũng thâu hoạch, ta biết vậy, những gì đã gieo trong kiếp sống hiện tiền. Cũng dường thế ấy, những hành động của chúng ta tại đây sẽ đúc khuôn cho kiếp sống vị lai và như vậy, chúng ta bắt đầu hiểu biết vị trí của mình trong vũ trụ huyền bí này.

Tuy nhiên, nên ghi nhớ rằng theo Phật Giáo, không phải tất cả mọi sự việc đều xảy diễn do nghiệp quá khứ. Như vậy chúng ta không nên vội vã khiển trách hay tán dương một vị Trời (Deva) hay một nhân vật tốt phước nào khi phải chịu đau khổ hay khi được thọ hưởng phước lành. Không, chí đến Ðức Phật cũng không thể cứu vớt chúng ta ra khỏi dây trói buộc của vòng luân hồi (samsàra). Mỗi cá nhân phải tự mình gia công nỗ lực cần thiết để tự giải thoát. Trong đôi tay phàm tục của chúng ta có sẵn quyền năng uốn nắn cuộc sống của ta. Một cách gián tiếp, người khác có thể giúp ta một tay, nhưng để giải thoát ra khỏi mọi đau khổ, mỗi người phải tự đặt mình trên hòn đe rồi tự mình ra công đập, uốn, giũa mài.

Chúng ta tin rằng:

"Bất luận gì con người làm,
Ðiều ấy, chính con người sẽ gặp;
Người tốt gặp điều lành; và điều xấu đến với kẻ xấu;
Và như thế, tất cả hành động đều như hột giống,
Giống nào trổ quả nấy."

Chúng ta thấy một triều đại của định luật thiên nhiên nhân và quả vô cùng tận, và không có chi khác thống trị vũ trụ. Toàn thể thế gian đều do luật nhân quả chi phối. Trọn thế giới nằm vỏn vẹn dưới quyền điều khiển và kiểm soát của luật nhân quả vô cùng tận này, hay nói cách khác, hành động và phản ứng của hành động.

Trau Giồi Nội Tâm

Con người là một tiến trình danh và sắc luôn luôn biến chuyển, và yếu tố quan trọng nhất nằm trong tiến trình tâm. Kiểm soát tâm là trung tâm điểm, là phần nòng cốt của Giáo Pháp, những lời dạy của Ðức Phật. Hạnh phúc phải được tìm ra và phải được gia công làm cho nó trở nên tốt đẹp, toàn hảo, qua những yếu tố tinh thần bên trong, tâm thức của ta. Nhưng khi mà tâm bị nhơ bẩn, thì không thể thành tựu điều chi đáng giá trong đó. Vì lẽ ấy, Ðức Phật rất chú trọng đến trạng thái trong sạch của tâm, xem đó là điều kiện thiết yếu để tạo hạnh phúc thật sự và đưa đến giải thoát ra khỏi khổ đau. Ðức Bổn Sư thường nhắc nhở chư vị đệ tử:

"Hãy tự tìm các con," và 
"Hãy thuần hóa cái tâm của các con." 
--(Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, 16)

"Người dẫn thủy nhập điền đào mương cho nước chảy, 
Thợ làm tên uốn nắn mũi tên cho ngay thẳng, 
Thợ mộc uốn gỗ. 
Bậc đệ tử thiện trí tự kiểm soát mình." 
-- (Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 80)

Giữ mình, tránh những hành động tham ái và tự rèn luyện để có những hành động không-tham-ái, tức vị tha, là con đường an lạc và thật sự hạnh phúc trong giáo thuyết của Ðức Phật. Hai bài kinh do Ðức Phật thuyết giảng --Trường A Hàm số 25 và Trung A Hàm số 22 -- nói lên rõ ràng tại sao Ðức Phật ban truyền Giáo Pháp, Dhamma, giáo huấn của đạo Phật.

1. Ðức Thế Tôn đã giác ngộ. Ngài dạy Giáo Pháp để giác ngộ kẻ khác.

2. Ngài đã tự kiểm soát. Ngài dạy Giáo Pháp để người khác tự kiểm soát.

3. Ðã thành đạt trạng thái tĩnh lặng, Ngài dạy Giáo Pháp để người khác thành đạt tĩnh lặng.

4. Ðã vượt qua bờ bên kia (ogha, dòng nước ô nhiễm), Ngài dạy Giáo Pháp để giúp người khác vượt qua (đáo bĩ ngạn).

5. Ðã chứng ngộ Niết Bàn (bằng cách dập tắt ngọn lửa của ô nhiễm, parinibbuto), Ngài dạy người khác để cho họ thành tựu Niết Bàn.

Giáo Pháp, Ðạo Giáo do Ðức Phật ban truyền, không phải để học hỏi suông hay chỉ để giữ làm của riêng. Ðức Phật rõ ràng dạy rằng Giáo Pháp là phương tiện đưa chúng sanh vượt thoát qua khỏi biển trầm luân đau khổ, đại dương mênh mông của vòng luân hồi (samsàra), những kiếp sống triền miên tiếp diễn, và đến tận bờ bên kia, chắc chắn và an toàn, của trạng thái Vô Sanh Bất Diệt, Niết Bàn. Giáo Pháp như chiếc bè để đưa khách lữ hành vượt qua vùng nước lũ.

Chỉ khi nào thuần thục, không còn được phép cưỡng kháng, và đi theo đúng con đường tiến bộ trật tự chân chánh, tâm mới trở nên hữu dụng, cho cá nhân người làm chủ nó và cho xã hội. Do bản chất thiên nhiên của nó, tâm vô trật tự là một món nợ cho cả hai, người làm chủ nó và cho kẻ khác. Tất cả mọi tàn phá trên thế gian đều do những người không biết đường lối kiểm soát tâm và không biết làm thế nào để giữ thân quân bình và trầm tĩnh. Do đó Ðức Phật dạy:

"Bất luận gì mà kẻ thù có thể gây cho kẻ thù -- 
Người oán hận cho người oán hận -- 
Một cái tâm hướng về chiều ác 
Có thể gây nguy hại còn to lớn hơn nhiều." 
--(Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 42)

Ðối với thế gian, địa vị xã hội, giai cấp, màu da, tài sản và quyền thế, không thể là phẩm giá của một người. Chỉ có tâm tánh mới làm cho con người là vĩ đại hay xứng đáng được tôn kính. "Tâm tánh là cái gì sẽ phát lộ khi ta sống cuộc sống mạnh bạo hướng về lý tưởng và sinh hoạt khéo léo. Cũng như kim cương là chất thán tố (carbon) dưới sức ép thật cao, cùng thế ấy, cuộc đời mà được sống dưới áp lực của tình trạng tinh thần tận lực và liên tục cố gắng cũng tạo nên châu báu của nó, tâm tánh." Chính tâm tánh làm sáng chói trí tuệ (apadàna sobhinì pannà).

Con người trong hiện tại là kết quả của nhiều triệu tư tưởng và hành động liên tục tiếp diễn. Không phải tự mình đã sẵn là vậy và không còn biến đổi, con người đang luôn luôn trở thành và sẽ còn luôn luôn trở thành. Tâm tánh của con người do chính mình đã chọn và đã quyết định trước. Tư tưởng, hành động mà mình đã chọn, thói quen lặp đi lặp lại ấy, sẽ là số phận mà con người trở thành.

"Tâm sáng chói lúc ra đời, chỉ những ô nhiễm bất cẩn làm bợn nhơ (pabhassaramidam bhikkhave cittam, tam ca kho àgantukehi upallilesehi upakkilittham)", Ðức Phật dạy như vậy. Và những người khác, cùng một ý nghĩa với Phật ngôn trên, nói lên điều ấy với những danh từ khác: "Do bẩm tánh thiên nhiên chúng sanh vốn dịu hiền, nhưng vì bất cẩn ta để cho các ác pháp làm hoen ố."

Bằng cách chú tâm và suy tư chân chánh về những gì ta gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, kiểm soát những khuynh hướng xấu và kềm chế những quyến rũ, ta có thể giữ tâm khỏi bị ô nhiễm. Khó mà từ bỏ những gì phỉnh gạt và nắm giữ ta trong vòng nô lệ; và khó mà trừ khử những tà ma quỷ quái thường vãng lai khuấy phá tâm con người dưới hình thức tư tưởng bất thiện. Những ma quái ấy là biểu hiện của tham, sân, si -- lobha, dosa và moha, đạo binh gồm ba đơn vị của Ma Vương (Màra). Chí đến khi vượt đến tuyệt đỉnh cao của trạng thái hoàn toàn trong sạch bằng cách liên tục rèn luyện tâm, ta không thể trọn vẹn đánh đuổi những người chủ nhà này.

Chỉ từ bỏ suông những hình thức bề ngoài như nhịn ăn v.v..., không có chiều hướng thanh lọc con ngưòi, những điều ấy không làm cho con người trở nên thánh thiện và tránh khỏi mọi tổn hại. Pháp hành khổ hạnh ép xác là một cực đoan mà Ðức Bổn Sư bác bỏ trong Bài Pháp Ðầu Tiên, kinh Chuyển Pháp Luân, cũng như Ngài đã loại bỏ lối sống lợi dưỡng, gọi đó là thấp hèn. Tránh xa hai cực đoan ấy Ðức Phật vạch tỏ cho thế gian con đường ở giữa -- Majjhimà Patipadà, Trung Ðạo -- dắt dẫn con người đến thanh bình an lạc, giác ngộ và Niết Bàn (upasamàya, sambodhàya nibbànàya). Spinoza viết: "Những gì thường xảy ra trong đời sống và được con người quý chuộng, xem là tốt đẹp nhất, có thể thâu gọn làm ba điều, giàu sang, danh thơm tiếng tốt, và tham vọng. Ba điều này làm cho tâm vọng động đến độ khó lòng có thể nghĩ đến gì tốt đẹp khác."

Khát vọng của con người quả thật là phiền nhiễu. Tham vọng của những chúng sanh mù quáng đã gây nên sân hận và tất cả những đau khổ khác. Kẻ thù của toàn thể thế gian là tham ái, do đó tất cả mọi điều xấu đến với chúng sanh. Khi bị trở ngại vì một nguyên nhân nào, tham ái này biến đổi thành sân hận. Và con người sa vào màn lưới mà chính mình đã giăng bằng khát vọng mong tìm khoái lạc, dường như nhện, trong màn lưới của nó. Nhưng khi được rèn luyện trong giới luật, phát triển trong thiền vắng lặng, và được rọi tỏ trong ánh sáng chân lý, bậc thiện trí liên tục cắt đứt trói buộc, phá tan màn lưới. Bậc thiện trí thức xem người tự chinh phục chính mình bằng cách diệt tận khát vọng là cao cả hơn người đã chinh phục hằng muôn ngàn quân nơi trận địa.

Tiết chế không dùng chất say, và gia công chuyên cần, vững vàng củng cố hạnh nhẫn nhục và đức tánh trong sạch, bậc thiện trí rèn luyện tâm mình. Thái độ lúc nào cũng trầm tĩnh cho thấy là con người thấm nhuần văn hóa. Giữ thái độ trầm tĩnh khi tất cả mọi sự việc quanh mình đều thuận lợi thì không phải là khó lắm. Nhưng nghiêm chỉnh điềm nhiên giữa những hoàn cảnh không thuận lợi thì quả thật là khó, và chính điều khó ấy đáng cho ta cố gắng thực hành; bởi vì do công phu tự kiểm soát chặt chẽ như vậy ta xây đắp tâm tánh dũng mãnh. Tự kiểm soát là chìa khóa mở cửa đến hạnh phúc. Ðó là chúa tể của giới luật, là năng lực nằm phía sau tất cả mọi thành tựu thật sự. Hành động của người không tự kiểm soát ắt không có mục tiêu, không nhất quyết vững chắc. Và người lợi dưỡng trong nhục dục ngũ trần như vậy cũng giống như chim gõ kiến thèm khát, ăn cây mã đề hoang dại đến lâm trọng bịnh. Người xưa có lời dạy:

"Nếu mãi nghĩ ngợi về nhục dục ngũ trần,
Ðiều này làm khởi sanh sức quyến rũ;
Từ năng lực quyến rũ tăng trưởng tham vọng;
Tham vọng bật cháy lòng khát khao mãnh liệt;
Khát vọng sanh buông lung, không thận trọng;
Rồi từ đó quên tất cả
Ðể cho mục tiêu cao cả ra đi
Và ngấm ngầm phá hoại tâm,
Cho đến khi mục tiêu, tâm và con người,
Tất cả đều hư hoại."

Vì thiếu kiểm soát mà trong tâm phát sanh đủ loại xung đột lẫn nhau. Muốn loại trừ xung đột ấy, ta phải kềm hãm lòng khát khao thèm muốn và nỗ lực sống cuộc đời tự chế và trong sạch.

"Thông thường chúng ta mãi bị trói buộc quá nhiều vào giác quan và trần cảnh, chúng ta chỉ sống trong thế gian vật chất mà lãng quên tiếp xúc với năng lực bên trong. Tuy nhiên, phải tập ẩn rút vào những thực tại bên trong. Bằng cách ẩn rút vào im lặng ta có thể học hỏi phương thức nhằm chế ngự những nhược điểm và những thiếu sót của kinh nghiệm bình thường. Không làm vậy cuộc sống của chúng ta thiếu ý nghĩa, không mục tiêu, thiếu hướng đi và không nguồn cảm hứng."

Không phải bao nhiêu luận lý và tranh biện về phương cách hoàn bị cải thiện đời sống mà dẫn chúng ta đến mục tiêu mong mỏi. Không phải bao nhiêu suy cứu hay khảo sát mà đem ta một tấc đàng đến gần đích hơn. Nhưng mỗi hành động thật sự buông bỏ và tách rời, xa lìa những đối tượng đã kích thích lòng khát khao, vốn dẫn dắt ta đi sâu vào đêm tối của vô minh và lừa phỉnh, đưa chúng ta vào tròng nô lệ của chúng, sẽ đưa chúng ta đến đích, đến hạnh phúc, đến thanh bình an lạc.

Không có gì mơ hồ trong giáo huấn của Ðức Phật. Ðã hiểu biết điều gì xấu là xấu, và điều gì tốt là tốt, tại sao cần do dự, không nhất quyết tránh điều xấu và mạnh dạn tiến bước trên con đường tốt? Theo trí minh mẫn sáng suốt của người Phật tử, họ không thể làm gì khác hơn là trau giồi điều tốt và lánh xa điều xấu. Ðối với người Phật tử, hành thiện là điều không thể không làm, nếu họ thông hiểu lời dạy của Ðức Bổn Sư:

Sabba pàpassa akaranam 
Kussalassa upasampadà 
Sacitta pariyodapanam 
Etam Buddhànasàsanam.
"Gác bỏ qua mọi ác pháp 
Không bỏ sót thiện pháp nào không làm, 
Gội rửa tâm trong sạch -- 
Ðó là giáo huấn của các bậc Toàn Giác." 
(Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 183)

Dầu sao, mỗi người có thể chiến thắng nếu họ muốn. Tất cả chúng ta không thể là chánh khách, nghệ sĩ hay triết gia vĩ đại, nhưng quan trọng hơn, nếu muốn vậy, chúng ta có thể là người tốt.

Lắm khi những cố gắng của chúng ta để thành đạt trạng thái toàn hảo không thành công viên mãn. Nhưng thất bại không quan trọng, ngày nào mà ta còn thành thật quyết tâm nỗ lực. Không ai bỗng nhiên nhảy vọt đến tận tuyệt đỉnh núi cao. Chúng ta leo từng bậc. Như người thợ bạc thiện xảo, từng chút, từng chút, thổi đi bợn nhơ của vàng, con người phải kiên trì, gia công thanh lọc đời sống mình, gạn lọc những ác pháp. Một em bé tập đứng và dần dần bước đi một cách khó nhọc. Cùng thế ấy, trong cuộc diễn hành đến trạng thái tuyệt hảo, tất cả những người lớn cũng di chuyển từng giai đoạn đến thành công cuối cùng, xuyên qua những thất bại lặp đi và lặp lại.

Con đường mà Ðức Phật chỉ vạch để chúng ta trau giồi tâm và làm cho tâm lớn mạnh là pháp hành thiền. Ðó là phương cách thận trọng phát triển tâm, nhằm thâu hoạch thành quả tuyển chọn, hạnh phúc tuyệt đối và an nghỉ tối thượng, không còn mảy may vương víu tới những phiền nhiễu của cuộc sống. Ðó là con đường luôn luôn giữ chánh niệm, không ngừng ghi nhận tất cả những hành động của mình. Trông chừng và hay biết đầy đủ, đó là yếu tố đưa pháp hành thiền đến viên mãn. Người mà lúc nào cũng giữ chánh niệm và tự hay biết mình, người ấy đã ở ngưỡng cửa của trạng thái Vô Sanh Bất Diệt -- Niết Bàn.
-ooOoo-

0 nhận xét:

Đăng nhận xét