Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

PHẬT GIÁO, NHÌN TOÀN DIỆN - CHƯƠNG 7: THUYẾT TÁI SANH TRONG PHẬT GIÁO (PHẦN 2)

Trường Hợp Sanh Ðôi

Những trẻ em song sanh, cùng có chung một huyết thống, và cùng sống trong một môi trường. Tuy vậy, các nhà tâm lý học nhận thấy rằng chúng có tâm tánh và khí chất khác nhau. Rất có thể sự khác biệt ấy là do yếu tố thứ ba -- ngoài hai yếu tố truyền thống và giới thân cận -- đó là sự "mang chuyển" theo đến kiếp này những tinh xảo và thói quen của những kiếp sống trước.

Những trẻ thần đồng, có bẩm tánh thiên tài từ thủa còn bé, làm được những chuyện phi thường mà ta không thể nói là nhờ huyết thống của cha mẹ, ông bà, hoặc nhờ môi trường sinh sống, chỉ có thể là những trường hợp đặc biệt, các em mang theo những tài năng tinh xảo ấy từ những kiếp sống trước (xem  Những câu chuyện về trẻ em thần đồng, tiếp theo).

Hãy xem trường hợp được biết nhiều về hai trẻ sanh đôi người Thái, Chang và Eng. Hai em được sanh ra cùng một cha một mẹ và cùng sống trong một môi trường. Các chuyên viên tâm lý học nghiên cứu tác phong của hai em tường trình rằng bẩm tánh của hai em hoàn toàn khác biệt. Trong khi Chang có bịnh ghiền rượu thì Eng là người chống đối thói quen dùng chất say.

Các trường hợp ấy khuyến khích tâm hồn suy tư nghĩ đến việc tìm xem có yếu tố nào khác, ngoài hai yếu tố truyền thống và giới thân cận, ảnh hưởng đến tâm tánh con người. Nghĩ rằng một cơ thể tâm-vật-lý vô cùng phức tạp như con người mà lại phát sanh chỉ do sự phối hợp của hai yếu tố hoàn toàn vật chất là minh châu và tinh trùng của mẹ và cha thì quả thật là sai lầm. Phải có một yếu tố thứ ba, yếu tố tâm linh, thêm vào mới có thể đưa đến trường hợp thụ thai. Sự phối hợp của hai yếu tố thuần túy vật lý -- tinh trùng và minh châu của cha và mẹ -- không đủ để tạo nên một chủng tử, vốn là một hổn hợp vật chất và tâm linh. Phải có một yếu tố tâm linh, phối hợp với hai yếu tố vật chất để tạo nên một cơ thể tâm-vật-lý, một bào thai, một chủng tử.

Cái Gì Ði Tái Sanh?

Chúng ta đặt ra những danh từ như sanh, chết, lộ trình tâm v.v... để chỉ luồng tâm. Nhưng đó chỉ là những chập tư tưởng. Như đã giải thích ở phần trên, ta gọi chập tư tưởng cuối cùng là chết, và chập tư tưởng đầu tiên là sanh; sanh và tử đều phát sanh trong luồng trôi chảy của tâm, vốn là một chuỗi dài những chập tư tưởng liên tục nối tiếp. Không có một thực thể ổn định, thường còn, trong con người.

Ngày nào mà con người còn bám níu vào sự sống, vì vô minh, ái dục, và luyến ái, thúc đẩy, thì cái chết không phải là điểm chấm dứt cuối cùng mà sẽ còn tiếp tục quây quần trong vòng luân hồi. Ðó là tác động vô cùng tận của nhân và quả, do nghiệp lực vận chuyển mãi mãi, và nghiệp bị bao phủ trong lớp mây mờ vô minh và dưới sức lôi cuốn của ái dục hay khát vọng. Vì nghiệp hay hành động do chính chúng ta tạo, nên cũng chính chúng ta có quyền năng phá vỡ chuỗi dài hình như vô cùng tận ấy. Bằng cách tận diệt động lực lôi cuốn, ái dục ấy, khát vọng duyên theo kiếp sinh tồn ấy, ý ham muốn sống (bhava tanhà) ấy, vòng quanh sanh tử (samràra) sẽ chấm dứt. Dập tắt vĩnh viển, tận diệt ý ham muốn sống và sống trở lại ấy bằng pháp hành thiền minh sát (vipassanà), tiếp theo thiền vắng lặng hay thiền định (samàdhi). Xuyên qua công phu hành thiền, ta thấy mức tận cùng của những kiếp sống mãi mãi lặp đi lặp lại và đó là thực tại, là Niết Bàn (Nibbàna), mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo.

Người có óc tìm tòi có thể hỏi: Nếu không có một linh hồn trường cửu hay tự ngã, hay một thực thể nguyên vẹn được gọi là "Ta", để chuyển sinh vào một kiếp sống khác thì cái gì tái sanh? Thắc mắc này ngụ ý rằng bên trong con người sẵn có "cái gì" mà vào lúc chết có khả năng du hành hay di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Lại nữa, thắc mắc này cũng ngụ ý rằng "cái gì" ấy là ổn định và không biến đổi, bởi vì nó phải tồn tại vững bền xuyên qua kiếp sống nếu sẽ còn tiếp tục sống trong kiếp tới.

Như đã nói ở phần trước, con người bao gồm một luồng tâm và một luồng cơ thể vật chất. Luồng trôi chảy thân và tâm này biến chuyển từng giây từng phút, không có bất cứ gì vững bền bất động trước định luật vô thường. Tất cả đều ở trong tình trạng chảy trôi biến dịch. Như vậy, quả thật không thể nghĩ bàn đến một cái gì vững bền và không biến đổi bên trong con người. Với luồng trôi chảy không gián đoạn, không có chi hoàn toàn giống hệt như trong giây phút trước, cũng không có chi tuyệt đối khác hẳn.

Ðiều mà chúng ta gọi là đời sống ở đây là cơ năng sinh hoạt của năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm uẩn này bao hàm trọn vẹn cá tánh của một người, hay nói cách khác, ngũ uẩn ấy là cơ năng sinh hoạt của tâm và thân, vốn chỉ là động lực và năng lượng. Trong hai khoảnh khắc kế tiếp nó không bao giờ còn giống hệt như một. Người trưởng thành không hoàn toàn đúng là người ấy khi còn thanh niên, mà cũng không tuyệt đối là khác; chỉ có sự liên hệ giữa hai người, hay chỉ có sự liên tục. Cái mà hôm qua tôi gọi là ngày mai thì hôm nay là ngày nay. Ðứa bé mà nói, "Tôi" hiện hữu, trở thành người đứng tuổi và, vẫn một cách thành thật nói, "Tôi" hiện hữu, nhưng cả hai cá nhân mà người ấy gọi là "Tôi" không phải hoàn toàn là một. Tất cả mọi sự vật hợp thành người ấy đã đổi thay, dĩ nhiên là ta không thể trông thấy rõ ràng. Trên phương diện tâm linh càng khó cho ta nhận ra hơn, và cái "Tôi" của người bốn mươi tuổi hẳn không còn là cái "Tôi" của người ấy, thí dụ như lúc hai mươi.

Ta đã giải đáp thắc mắc: Nếu không có gì chuyển sinh từ kiếp này sang kiếp khác thì người được sanh ra trong kiếp sống sau này có phải là người chết kia không? Có phải chính người chết kia hay là người nào khác?

Nói rằng đó là hai người hoàn toàn khác biệt, không có gì giống nhau, thì không hẳn là đúng. Trong lúc ấy, nếu tuyên ngôn suông rằng hai người ấy là một thì có thể dẫn đến một số quan niệm sai lầm. "Không là một, cũng không là ai khác." Lại có thể hỏi: Nếu một người chết đưa đến một người được sanh ra, tức một người được sanh ra ở đây là có một người chết ở nơi khác, thì dân số trên thế gian phải còn nguyên vẹn, không đổi thay, tại sao vẫn tăng thêm hằng năm?

Sự tái sanh có thể xảy diễn chẳng những trên thế gian này nơi mà ta có thể kiểm kê dân số, mà cũng có thể xảy ra trong những hệ thống thế gian khác đã được đề cập đến trong kinh điển Phật Giáo. Cái chết của một người không nhất thiết phải đưa đến sự tái sanh của một chúng sanh trong cảnh người. Người chết có thể tái sanh vào một cảnh giới không phải cảnh người -- tốt hơn hoặc xấu hơn, tùy theo nghiệp mà họ đã tạo, thiện hay bất thiện.

Nếu chúng sanh đã có sanh và có sống trước đây, tại sao họ không còn nhớ gì đến kiếp trước? Như đã có đề cập ở phần trên, nhớ lại tiền kiếp không phải là trường hợp không thể có, nhưng rất hiếm hoi, rất ít người có thể nhớ lại tiền kiếp của mình. Có nhiều hơn là một giải đáp cho thắc mắc này. Trí nhớ của chúng ta không phải tuyệt đối hoàn hảo mà rất giới hạn. Nào ta có nhớ được chuyện gì xảy ra khi chào đời trong kiếp sống này, mặc dầu rõ ràng ta có được sanh ra. Ta hồi nhớ, và trí nhớ ta đi ngược dòng thời gian đến một điểm nào. Diễn biến đau khổ lúc lìa đời, khoảng thời gian giữa lúc được thụ thai và lúc lọt lòng mẹ, có thể có chiều hướng làm tan biến hay xóa bỏ mọi dấu vết của cuộc sống dĩ vãng.

Cái chết tự chính nó là một động lực bôi bỏ, bởi vì mỗi tâm thức cần phải đổi chiều để bắt đầu, ít hay nhiều là một tác động tẩy sạch tất cả bộ óc vật chất mới mẻ đang bắt đầu cấu hợp. Ðiểm khác nữa là bản chất của giai đoạn sinh tồn giữa lúc sanh ra làm người và cuộc sống trước. Theo Phật Giáo, có sự sống trong những cảnh giới không phải cảnh người và trong những cảnh ấy trí não không ghi nhận rõ ràng những xúc cảm và như vậy, một chuỗi dài những kiếp sống như thế giữa hai kiếp làm người có thể xóa bỏ tất cả kỷ niệm liên hệ. Tuy nhiên, một công trình khảo sát về tác phong của trẻ con sẽ chứng tỏ rằng chúng có mang theo vào cuộc sống mới một vài ý thức mà không có trong kinh nghiệm sống hiện tại. Tài năng tinh xảo của một vài trẻ con mạnh mẽ gợi ý rằng đó là những gì các em đã nhớ lại, hơn là mới được học.

Có những trường hợp cho thấy trẻ con còn nhớ lại những tài năng của mình trong tiền kiếp. Làm sao chúng ta giải thích được những trẻ thần đồng về âm nhạc, toán học, văn chương v.v...?

Ðiểm Tận Cùng Của Cuộc Hành Trình

Con người luôn luôn cảm thấy khó tin được rằng đời sống của mình sẽ chấm dứt khi cơ thể vật chất này tan rã. Câu hỏi: Chúng ta có còn sống nữa chăng sau khi chết? bao giờ cũng nổi bật trong tâm não con người, bởi vì nó dính liền với mọi vấn đề căn bản và mục tiêu trên thế gian.

Phải chăng không có một điểm chấm dứt trong chuỗi dài những kiếp sinh tồn? Ðức Phật chỉ dạy con đường:

"Này chư tỳ khưu, vì không thấu hiểu, không thấm nhuần bốn pháp (dhamma) mà chúng ta mãi giong ruổi, thênh thang lạc lối từ lâu, thật lâu rồi, trong vòng quanh luân hồi, cả các con và Như Lai. Bốn pháp ấy là gì? Giới, định, tuệ và giải thoát. Nhưng, này chư tỳ khưu, khi bốn pháp ấy đã được thấu hiểu và thấm nhuần, thì ái dục đeo níu theo đời sống cũng được nhổ tận gốc rễ, những gì dẫn đến kiếp sống mới đã bị tận diệt, và không còn tái sanh nữa." [6]

Không giới đức ắt không có định, không định tức không tuệ. Ba pháp ấy -- giới, định, tuệ -- là giáo huấn chủ yếu mà, khi được thận trọng trau giồi đầy đủ, sẽ nâng đời sống tinh thần của con người từ thấp lên những tầng lớp cao hơn, dẫn dắt con người từ bóng tối đến ánh sáng, từ khát vọng đến buông xả, từ khuấy động đến an tĩnh, từ ràng buộc đến châu toàn -- giải thoát.

Như vậy, người mong tìm giải thoát thực hành chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng (Sìla, Giới); người ấy thực hành chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định (Samàdhi, Định) và thêm nữa, thực hành chánh kiến, chánh tư duy (Pannà, Tuệ). Ðức Phật gọi đó là Bát Thánh Ðạo (hay Bát Chánh Ðạo), hay Trung Ðạo bởi vì con đường ấy tránh xa hai cực đoan: đắm say trong dục lạc, vốn là thấp hèn, phàm tục, và dẫn đến nguy hại; và cực đoan kia là ép xác trong nhiều hình thức khổ hạnh, vốn đau khổ, vô ích và dẫn đến nguy hại.

Người mong tìm giải thoát gia công cố gắng chân chánh chọc phủng những bức màn che lấp chân lý, từng lớp một, chí đến ngày hoàn mãn thiêu đốt tận cùng tất cả những cặn bã ô nhiễm, vượt đến siêu thoát, giác ngộ. Khi người ấy chết, ái dục bám níu vào đời sống cuối cùng cũng chấm dứt. Và do đó sanh, già, bịnh, than vãn, âu sầu, khốn khổ, tuyệt vọng và chết, cũng chấm dứt; tất cả mọi đau khổ đều chấm dứt. Bánh xe của vòng luân hồi lăn chậm dần đến lúc ngưng hẳn vận chuyển; cái trục vô minh, những cây căm tham ái, và vành xe sân hận của nó tan vỡ từng mảnh và cuối cùng chỉ còn là tro bụi, và đó là Niết Bàn -- "cái không sanh, không có khởi điểm, không được tạo ra và hiện hữu mà không do gì khác tạo duyên." [7]

Lặp Ði Và Lặp Lại

Lặp đi và lặp lại, hột bắp giống được gieo trồng;
lặp đi và lặp lại, trời trút đổ cơn mưa;
Lặp đi và lặp lại, người nông dân cày sâu cuốc bẩm;
lặp đi và lặp lại, quốc gia hưng thạnh;
Lặp đi và lặp lại, người hành khất van xin;
lặp đi và lặp lại, bậc từ tâm rộng lượng cho ra;
Và bố thí, người quảng đại phát tâm, hằng bố thí,
lặp đi và lặp lại, thọ hưởng hạnh phúc nhàn lạc.
Lặp đi và lặp lại, sửa được vắt ra từ vú bò;
lặp đi và lặp lại, bò con chạy theo mẹ;
Lặp đi và lặp lại, chúng sanh mệt mỏi và run sợ;
lặp đi và lặp lại, người cuồng si vào bào thai.
Lặp đi và lặp lại, sanh đến rồi tử đến;
lặp đi và lặp lại, người ta đem bạn đến nắm mồ.
Nhưng người thấy rõ không đi nơi nào để sanh;
người ấy không tái sanh vì đã thấu hiểu con đường;
Người ấy không tái sanh nữa, vào bất cứ cảnh nào. [8]

NHỮNG CÂU CHUYỆN TÁI SANH

Nhiều người lần đầu tiên viếng một nơi nào và tin rằng trước đây mình đã có thấy nơi này. Những người khác lần đầu tiên gặp một người và tin chắc rằng đây là gương mặt quen thuộc. Những câu chuyện tương tợ gợi ý cho ta nêu lên câu hỏi:

Trước Kia Ta Có ở Ðây Không?
Phải Chăng Ðây Là Tái Sanh?

Dầu bạn tin có tái sanh hay không tin, rất có thể một vài lần trong đời sống bạn đã gặp vài người kể cho bạn nghe câu chuyện họ viếng thăm một nơi mà truớc kia chưa bao giờ bước chân đến, nhưng họ cảm nghe rõ ràng là nơi ấy rất quen thuộc, hay có người kia mà họ mới gặp lần đầu tiên nhưng có cảm tưởng rằng đó là người mà trước kia đã có gặp rồi.

Tại sao vậy? Bạn có tin chăng rằng từ thủa xa xôi nào trong quá khứ đương sự đã có thấy cảnh kia hay người nọ trong một giấc mộng, rồi bây giờ hồi nhớ lại? Hay bạn có nghĩ chăng rằng đó chỉ là vấn đề cảnh giống cảnh, người giống người?

Bạn sẽ thấy rằng người kể chuyện cho bạn sẽ quả quyết rằng phản ứng kỳ lạ của họ khác xa những cảm xúc trong giấc mộng. Nó quá sống động, quá hiển hiện.

Như vậy thì câu giải đáp là thế nào? Trước tiên, hãy khảo sát kinh nghiệm của những người hiện đang còn sống và những người ấy quả quyết rằng không có câu giải đáp nào khác hơn là học thuyết tái sanh.

Con Ðầu Lòng Của Bà

Câu chuyện sau đây do Parry Miller tường thuật và được đăng trong báo Sunday Times of Ceylon, ngày 13 tháng 01, năm 1954.

Giờ đây tôi xin tường thuật câu chuyện của một bà mẹ và con trai của bà. Tôi hầu chuyện với bà trong căn phòng cách Hyde Park Corner không xa.

Câu chuyện bắt đầu khi bà cho tôi xem bức ảnh của một phần mộ tại Kuala Lumpur, Malaya (Mã Lai Á). Ðó là ngôi mộ của người con trai năm tuổi của bà. Và trên mộ bia có những dòng chữ quả thật đặc biệt là duy nhất. Phía dưới bức tượng hình bằng đá của một em bé xinh xắn, có ghi tạc những chữ như sau:

Ðể tôn vinh Thượng Ðế
và để mến thương tưởng niệm
con yêu quý của chúng tôi
Philip Pryce Smith.
Sanh ngày 22 tháng 10, 1920
Mãn phần ngày 22 tháng 11, năm 1925
Tái sanh ngày 23 tháng 02, năm 1927.
Thượng Ðế chuyển động một cách bí ẩn
Những thần diệu của Ngài để thực hiện.

Và sau đây là câu chuyện mà Bà Smith mô tả là "kinh nghiệm lớn lao nhất trong đời tôi."

"Tôi lấy chồng, một kỷ sư, và sang sống tại Mã Lai Á", bà nói với tôi, "và Philip là con đầu lòng của chúng tôi. Nó là một đứa bé xinh xắn, vui tươi và, lẽ dĩ nhiên, là cả một thế giới của tôi. Rồi, trong một cơn mưa mùa oi ả ẩm thấp của tháng 11, thình lình bé ngã bịnh. Chứng kiết lỵ làm nó kiệt quệ, và sau khi đau chỉ có tám ngày là nó mất -- đúng một tháng trước ngày sinh nhật năm thứ năm của nó. Tôi sầu muộn đến cuồng trí. Từ bao giờ, tôi vẫn là một tín đồ nhiệt thành sùng đạo, tôi hy vọng như vậy. Nhưng tôi không thể hiểu vì sao một đấng Thượng Ðế giàu lòng từ thiện lại đem đi đứa con duy nhất của tôi."

Sau tang lễ cho con, chồng bà Smith gởi bà đi du ngoạn ở Miến Ðiện. Nhưng cơn buồn của bà vẫn không thể nguôi ngoai. Bà trải qua phần lớn thời gian trên tàu quỳ gối trong phòng và nức nở khóc trên giường, không thể kềm chế.

Một ngày vào đầu tháng 12, khi tàu di chuyển dần vào cảng Moulmein xứ Miến Ðiện, Bà Smith, bị dày vò đau khổ vì mất ngủ, quỳ gối trên sàn nhà trong phòng, một lần nữa. "Tôi trút hết nỗi lòng trước Thượng Ðế," bà trầm tĩnh nói với tôi, "và khi ngồi lên tôi cảm nghe có sự thúc giục kỳ lạ. Tôi tự cảm nghe có sự ép buộc phải nói chuyện với một người Miến Ðiện mà tôi nhìn thấy trên tàu. Tôi chưa bao giờ biết ông, chưa bao giờ nói chuyện với ông ta. Ðây là một thúc giục mà tôi cảm nghe không thể cưỡng lại, bắt buộc phải vâng theo. Sự thúc giục ấy cấp bách đến độ tôi chưa kịp ăn mặc chỉnh tề, chỉ vắt ngang một áo kimono, rồi vội bước nhanh ra khỏi phòng và đi ngay lên sân tàu.

"Kìa ông Miến Ðiện, đứng bên cạnh lan can tàu, đâm đâm nhìn cảng Moulmein nằm phía bên kia làn nước biếc. Tôi cũng nhìn. Tôi thấy một ngôi chùa lóng lánh dưới ánh sáng mặt trời. Khó cho tôi mở đầu cuộc đàm thoại. Tôi cảm nghe như cứng lưỡi. Nhưng cuối cùng mắt tôi nhìn thấy trở lại ngôi chùa. Tôi đưa tay lên chỉ ngôi chùa và hỏi ông ta tên chùa là gì. Và khi ông nói cho tôi biết tên chùa thì tôi bạo dạn hỏi: "Theo tôn giáo của ông, ông tin chuyện gì xảy đến cho một đứa bé sau khi nó chết?"

"Câu trả lời của ông thật gọn, thật giản dị, 'Chúng tôi tin,' ông nói, 'đứa bé chết -- và rồi được sanh ra trở lại.'

"Bỗng chốc hình như tôi thấu hiểu mọi sự vật. Tôi cảm nghe hình như có sự sắp đặt nào để hướng dẫn tôi đến ngay người Miến Ðiện này, và ông ta được chỉ bảo để chuyển giao cho tôi bức thông điệp mà tôi hằng mong tìm và hằng van vái nguyện cầu để được. Và trong chốc lát tôi thấu hiểu rằng tất cả sẽ trở nên tốt đẹp, rằng đứa bé mà tôi mất sẽ trở lại với tôi.

"Về Mã Lai Á trở lại, tôi thuật cho bạn bè nghe câu chuyện và nói rõ niềm tin chắc của tôi vào lúc ấy. Lẽ dĩ nhiên là họ ngờ vực. Họ nghĩ rằng vì quá sầu muộn nên tôi đâm ra cuồng loạn. Tôi cũng vậy, cũng bắt đầu ngạc nhiên không biết có phải vì mất con, quá đau lòng, nên thấy cần phải chụp bám vào bất cứ gì để giải cơn sầu. Trong khi những nổi ngờ vực như thế ấy khơi dậy thì hầu như tôi cũng bắt đầu thất vọng trở lại. Rồi những tín hiệu khác lại đến với tôi. Tôi nằm mộng thấy con. Nó choàng tay vòng quanh cổ tôi và nói chuyện với tôi, 'Này mẹ, con đang trở về với mẹ,' nó nói. Và tôi thấy đó là điều mà tôi nghĩ rằng là một tín hiệu khác. Một tập hình của nó. Lúc ấy nó còn quá nhỏ để viết chữ thường, nhưng có thể quọt quẹt khắc những chữ hoa. Và một ngày kia, lật xem tập hình ấy của nó, tôi thấy nó viết bằng viết chì danh từ 'PAGODA' (chùa), chữ in. Tôi lấy làm ngạc nhiên. Tôi không thể hiểu làm thế nào nó gặp được danh từ ấy. Tôi chỉ có thể xem đó là một tín hiệu khác, báo trước cho biết những điều mới lạ.

"Và rồi, trong một điềm mộng khác vào khoảng tháng 03, năm 1926, lối 14 tuần sau khi Philip chết, nó lại nói với tôi một lần nữa là sẽ trở về. 'Này mẹ, con sẽ trở về với mẹ hai tháng sau lễ Giáng Sinh,' nó nói. Và gần 12 tháng sau, lúc ấy nhằm tháng 02, năm 1927, điềm mộng trở thành sự thật. Tôi hạ sanh Philip trở lại."

Ðúng vậy, đây là câu chuyện lạ lùng của Bà Smith. Bà và tôi đều biết trước những người còn ngờ vực sẽ nói gì. Nhưng niềm tin vững chắc của bà không phải chỉ vì tìm được nơi một giáo lý Ðông Phương niềm an ủi dễ chịu trong cơn sầu muộn. Con bà quả thật được bà sanh hai lần, rõ ràng như vậy. Bà nói với tôi, "Nếu tôi không còn tin rằng Philip của tôi ngày nay là hiện thân của Philip đã chết, có thể tôi không còn niềm tin nơi Thượng Ðế nữa."

Ngày nay Philip được 26 tuổi. Ông theo học trong một trường công nổi tiếng của người Anh và hiện là kỷ sư làm việc tại Úc Châu.

Cặp Trẻ Sanh Ðôi Nhớ Lại Ngày Ðã Chết Trong Kiếp Trước

Câu chuyện sau đây do John Macklin tường thuật và được báo Ceylon Sunday Observer đăng ngày 04 tháng 04, năm 1965.

Câu chuyện của cặp sanh đôi Pollock có lẽ là vòng khoen vững chắc nhất trong chuỗi dài những sự kiện hiển nhiên chứng minh thuyết tái sanh. Người ta bàn tán về những sự việc xảy diễn tám năm về trước -- những diễn biến xảy đến hai trẻ em đã chết, trước khi cặp song sanh chào đời.

Một ngày chủ nhật tháng 05, năm 1957 em Joanna Pollock, mười một tuổi, cùng em Jacqueline, sáu tuổi, vui vẻ vừa đi vừa chơi trên vỉa hè trong khi đi lễ nhà thờ, tại một thành phố miền ven biển vịnh Whitley Bay. Bỗng nhiên cảnh thanh bình an lạc của buổi sớm ngày hè thình lình tan vỡ. Một chiếc xe hơi quẹo quá nhanh tại một góc đường, trợt bánh đâm vào hai em. Cả hai đều tử nạn.

Ðối với anh bán sửa John Pollock và vợ, Florence, quả thật vô cùng khó mà chấp nhận rằng cả hai con đều chết. Và mỗi ngày càng cảm nghe khó hơn, vì hai vợ chồng Pollock nhất quyết tin chắc rằng Joanna và Jacqueline đã trở về ngôi nhà nhỏ bé nhìn xuống biển North Sea nước xám xanh.Câu chuyện hai bé song sanh đã trở thành vòng khoen vững chắc nhất trong chuỗi dài những sự kiện chứng minh thuyết tái sanh. Các nhà khảo cứu về tâm lý học xem đây là câu chuyện làm chấn động và khiêu gợi tánh hiếu kỳ nhiều nhất trong thập niên.

Gillian và Jennifer được sanh ra mười bảy tháng sau thảm kịch. Không có ai nói gì với hai em một cách rõ ràng về cái chết của hai người chị ... vậy mà, hai em biết rành mạch từng chi tiết nhỏ nhặt về câu chuyện tai nạn. Và tất cả những gì hai em nói, khi được kiểm lại, đều phù hợp với những diễn biến đã xảy ra. Jennifer, được sanh ra mười phút sau người chị sanh đôi Gillian, nay năm tuổi, giống hệt Jacqueline, người em trong hai bé tử nạn. Những bức hình chụp cho thấy giống nhau như khuôn đúc.

Từ đêm được sanh ra đời, Jennifer đã mang một vết thẹo lạ thường màu trắng, nhỏ chừng một phân rưởi Anh (1 1/2 inch), băng ngang trên trán. Trước kia Jacqueline cũng có một vết thẹo giống y hệt -- vì đã bị té vào năm lên ba. Còn có những điểm giống nhau kỳ lạ khác: Jennifer có cái bớt màu đỏ bầm bên hông khoảng bằng đồng tiền, thì Jacqueline hồi trước cũng có cái bớt đúng y vậy.

Hai vợ chồng Pollock thường ngày để ý đến sự giống nhau của hai trẻ, một đã chết và một tại tiền. Thí dụ như Jennifer thích viết. Không ai chỉ biểu, em có lối cầm viết đặc biệt, giữ cây viết chì giữa ngón giữa và ngón trỏ của bàn tay mặt, rồi dùng ngón cái đẩy tới. Jacqueline cũng cầm viết giống vậy...

Những học giả khảo sát vô cùng kinh ngạc trước sự hiển nhiên của trường hợp vợ chồng Pollock. Những vị này phỏng vấn hai em bé và nhận thấy rằng có những nơi và những vật mà chỉ có Joanna và Jacqueline biết còn Jennifer và Gillian chưa bao giờ biết hay thấy, nhưng hai em nói đúng y hết.

Gillian cũng vậy, có những cử chỉ giống y Joanna. Em có lối nói chuyện và lối dùng chữ, có bộ đi cách đứng và điệu bộ cầm tay em dắt đi chơi giống hệt Joanna.

Nhưng có lẽ điều làm kinh ngạc hơn cả là khi nói đến tai nạn, hai em thuật lại giống như chuyện ấy xảy đến cho mình. Gillian thường kể những chi tiết mà chưa bao giờ có ai nói cho em biết. Gần đây Bà Pollock thấy Gillian đặt tay trên vai Jennifer và mô tả một cách chính xác những vết thương của Jacqueline khi bị tử nạn.

Lần nọ, khi hai em dạo chơi, một người hàng xóm nhìn thấy hai em đứng khóc bên đàng, đúng ngay tại nơi mà trước kia thảm kịch xảy diễn -- và một lần nữa, chưa bao giờ có ai chỉ rõ cho hai em biết địa điểm này.

Có lần Jennifer hỏi mẹ, "Ông ... hiện giờ thì sao? Ông có còn bối rối phiền lụy như trước không?" Em nhắc đến tên người lái chiếc xe, biết người ấy ở đâu, và người ấy lái xe loại nào.

"Mới đây," người cha nói, "trong khi ở trên gác, tôi gặp hộp đồ chơi của hai trẻ bị tử nạn mà tôi đã gói lại kỹ càng. Tôi biết chắc rằng hai đứa nhỏ sanh đôi này không bao giờ thấy cái hộp ấy và không thể biết hộp chứa đựng gì. Tôi có ý định cho hai đứa nó đồ chơi trong hộp. Khi tôi vừa mở hộp ra thì Gillian nhảy vồ tới chụp lấy cái đồ chơi nhỏ để ép quần áo của cúp bế, và vui mừng la lên: "Kìa Cha, cái máy ép đồ chơi của con." Món đồ chơi này trước kia của Joanna và đó là món đồ chơi mà nó ưa thích nhất.

Chính những diễn biến như vậy -- và có rất nhiều chuyện -- làm cho những nhà khảo cứu buộc lòng phải đi đến kết luận là cặp song sanh Pollock trước kia đã có sống trên thế gian.

Một trong những người cuối cùng tin như vậy là cha của các em. Ông là người theo đạo Thiên Chúa, và tín ngưỡng này không chấp nhận thuyết đầu thai (Sử liệu ghi rằng vào thời xưa Giáo Hội Thiên Chúa nhìn nhận có đời sống trước khi sanh. Nhưng Ðại Hội Thiên Chúa lần thứ Nhì họp tại Constantinople vào năm 553 tuyên bố rằng tin như vậy là trái với giáo lý được Giáo Hội công nhận. Xem quyển Reincarnation, An East-West Anthology, trang 321 -- Tác Giả). Nhưng bởi vì hai trẻ chết nên ông có cảm tưởng kỳ lạ là sẽ có cặp gái sanh đôi sanh vào gia đình để thay thế. Bà Pollock chế giễu và xem ý nghĩ đó là chuyện nói đùa -- các vị bác sĩ chăm sóc bà cũng nghĩ như vậy. Các vị này chỉ nghe có một trái tim đập. Nhưng lúc sanh ra, là hai trẻ.

Lúc đầu Bà Pollock không thể chấp nhận ý nghĩ đầu thai. Giờ đây bà nói: "Bắt buộc tôi phải tin như vậy một cách nghiêm chỉnh. Hình thể vật chất giống nhau, những điều kỳ lạ mà chúng nó nói, và cách ưa thích đồ vật giống nhau, khiến tôi tin rằng phải có gì đây. Có người đến nhà thăm -- những người này chưa từng đến nhà từ khi Jacqueline và Joanna chết -- nhưng vừa gặp mặt là hai trẻ song sanh tức khắc nhận ra. Chúng nó luôn luôn biết cả tên của họ. Làm sao có thể giải thích những chuyện như vậy?"

Những nhà khảo sát tâm lý học cũng hỏi như vậy. "Khi hai trẻ đủ trưởng thành," John Pollock nói, "tôi sẽ cho chúng nó biết rằng tôi tin chắc, chúng quả thật là hai chị em đã chết và trở lại trần gian. Chừng ấy chúng có thể để cho một loại thôi miên nào đó giúp khám phá nhiều hơn về kiếp sống quá khứ của chúng." Chừng ấy, và chỉ đến chừng ấy, những tia sáng mới sẽ soi tỏ câu chuyện rối răm của cặp song sanh Pollock -- hai em gái mà hình như đã sống lần thứ nhì.

NHỮNG TRẺ THẦN ÐỒNG

Xuyên qua nhiều thế hệ, những trẻ thần đồng, những em có thiên tài lạ thường, luôn luôn là những trường hợp lịch sử hứng thú một cách sâu xa.

Jean-Louis Gardiac, "em bé kỳ diệu" của đền Chateau de Gardiac, Pháp Quốc, sanh vào năm 1719, lúc chỉ có ba tháng đã biết rành mẫu tự, và tiến bộ tinh thần của em nhanh chóng và vững vàng. Năm lên ba em có thể đọc chữ La Tinh dễ dàng, và lên bốn thì có thể chuyển ngữ trôi chảy từ La Tinh sang tiếp Pháp và tiếng Anh. Ðến năm lên sáu, trong khi phần đông trẻ con vào lứa tuổi ấy mới bắt đầu cấp sách đến trường thì Gardiac đọc rành chữ Hy Lạp (Greek) và chữ Do Thái (Hebrew), và đã vững chắc thông thạo ngành toán học, sử học và địa lý học. Cũng như nhiều trẻ em thần đồng, đời của em quả thật ngắn ngủi, nhưng ngoạn mục. Em qua đời tại Paris lúc bảy tuổi.

Ta có thể giải thích thế nào trường hợp của Mozart, soạn nhạc từ lúc năm tuổi? Wolfang Amadeus Mozart (1756-1791) chào đời tại Salizburg, Áo Quốc. Năm lên ba, rõ ràng em là một thiên tài kỳ diệu từ lúc ấu thơ. Những ngón tay tí teo của em bắt đầu khơi dậy những điệu khúc du dương và em sớm trở thành một nhạc sĩ tài năng, trình diễn với chiếc vĩ cầm bé nhỏ. Khi lên bốn, em viết khúc cầm (sonata). Ðến bảy tuổi, lần đầu tiên Mozart điều khiển Ðại Hòa Tấu.

Rồi có em thần đồng Josef Hofman, người Ba Lan, chơi dương cầm từ lúc mới mười một tuổi rưởi. Tay vói lên vừa tới cây đàn dương cầm thì đã chơi rành những bản nhạc cổ điển. Có chăng một giải đáp hợp lý nào ngoài chủ trương rằng đó là kết quả của sự hồi nhớ tiền kiếp?

Giải thích thế nào trường hợp của vài người như Sir William Hamilton? Khi lên ba ông đã nói rành tiếng Do Thái ... Mười ba tuổi thì William Hamilton có thể nói mười ba ngôn ngữ khác nhau, trong đó có tiếng Ba Tư, tiếng Á Rạp và tiếng người miền Bắc Ấn Ðộ (Hindustani).

Ta có thể tranh luận, thí dụ như vậy, rằng những trẻ em thần đồng ấy chỉ thừa hưởng thiên tài của cha mẹ như một di sản. Nhưng điều kỳ lạ là phần lớn các trường hợp, cha mẹ hay gia đình các em không có những thiên tài trong ngành mà các em trở thành xuất chúng. Luật truyền thống xem hình như không thích nghi, không thể cung ứng một giải thích thỏa đáng. Trích từ "Reincarnation Fact or Fiction" tác giả Don Easterd, Ceylon Times Weekender, ngày 02 tháng 09, năm 1967.
________________________________________

Chú thích:

[1] Trong khi soạn thảo phần này của quyển sách, tác giả muốn ghi nhận mình đã xử dụng rộng rãi những tác phẩm sau đây: Rebirth Explained, V.F. Gunaratna, (Wheel 167/169), Survival and Karma in Buddhist Perspective, Giáo Sư K.N. Jayatilleka, (Wheel 141/143), và Rebirth As Doctrine and Experience (Collected Writings; Vol. II), Francis Story. Tất cả những sách trên đều do nhà xuất bản Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka phát hành.

[2] Cùla Kammavibhanga Sutta, Majjhima Nikàya, Trung A Hàm 135.

[3] Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, iii, 149, 151.

[4] A.J.Ayer, The Concept of a Person, London 1963, trang 137.

[5] Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, trang 38.

[6] Dìgha Nikàya, Trường A Hàm, trang 16.

[7] Udàna, Khúc Ca Hoan Hỷ, quyển viii, cũng trong Sara Sutta, Devatà Samyutta.

[8] Upàsaka Vagga, Udaya Sutta, Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm, do ÐÐ Soma Thera dịch.

-ooOoo-

0 nhận xét:

Đăng nhận xét