Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI - CHƯƠNG 8: TRÊN ĐẢO INDUS

Chương 8
Trên Đảo Indus 

Nếu gặp đưọc người chỉ rỏ lỗi mình
Như thể chỉ lối vào kho báu
Là bậc tri thức chỉ đường ngay
Hãy kết làm tri kỷ
Bởi những bạn hiền như thế
Làm tốt cho ta, chẳng thể xấu bao giờ.
Kinh Pháp Cú - 76

   Ở Sydney, một bức điện tín đang chờ đợi chúng tôi.  Bức điện tín từ công ty củ của Gerd nơi trước đó anh là kỹ sư điện của họ.  Công ty mời anh hợp đồng làm việc trong hai năm ở Pakistan.  Về lương bổng, chúng tôi đưọc trả rất hậu hĩnh.  Nhưng còn công việc thì quả là gian nan.  Người ta cần xây một nhà máy điện trên sông Indus, nơi hiện có một máy đập nước.

   Chúng tôi quyết định chấp nhận hợp đồng một cách nhanh chóng.  Công trình nầy nằm trong kế hoạch Colombo, một kế họach phát triển đã đưọc nhiều nước phát triển ký ở Colombo, thủ đô của Sri Lanka.  Các nước nầy cam kết sẽ thực hiện các dự án công nghiệp hóa ở các nước kém phát triển, và họ sẽ tài trợ mọi thứ, từ nhân lực đến tài nguyên.  Nhà máy điện ở Indus là một trong những loại công trình nầy, do Canada tài trợ.

   Trước khi khởi hành, chúng tôi phải trình bày sự việc với đại diện chính quyền Uùc về việc họ đã tài trợ cho chuyến đi của chúng tôi đến Uùc, nhưng giờ chúng tôi phải đi Pakistan trong hai năm.  Các nhà đại diện tỏ ra rất hợp tác.  Họ chỉ yêu cầu chúng tôi bỏ số tiền tài trợ đó vào một ngân hàng.  Trong hai năm, khi chúng tôi trở lại, thì có quyền lấy số tiền đó ra.

   Và mọi chuyện đã xảy đúng ra như thế.  Dầu rằng phải năm năm sau, chúng tôi mới trở lại Uùc, nhưng vẫn đưọc lấy tiền ở ngân hàng trở lại.  Chính quyền Uùc lúc đó tỏ ra rất trọng đãi những người như chúng tôi: một kỹ sư điện, với một vợ, một con, có thể khiến họ tin tưởng rằng chúng tôi khó thể bị hoàn cảnh khó khăn nhấn chìm.

   Chúng tôi không phải là những người du lịch hiểu theo nghĩa bình thường.  Người du lịch sẽ quay trở về nhà, sau một thời gian nào đó.  Trong khi chúng tôi là những kẻ lang thang cùng khắp trái đất, những kẻ không nhà.

      Chúng tôi đặt vé máy bay đi từ Uùc đến Pakistan (vé do công ty của Gerd đài thọ), có ghé ngang qua Do Thái.  Gerd đã từng sống một thời gian ở Do Thái, nói lưu loát tiếng Hebrew, trước là một sĩ quan trong quân đội Do Thái, lại còn có rất nhiều bà con thân quyến ở đây.  Rỏ ràng là có quá nhiều lý do để chúng tôi phải ở lưu lại nơi đây vài tuần.

   Ở Do Thái, bao nhiêu nơi chốn trong kinh thánh lại trở thành hiện thực đối với tôi.  Tôi cảm thấy như lại đưọc tiếp xúc với truyền thống, nguồn gốc Do Thái của mình.  Nói về khảo cổ học, Do Thái đúng là một kho tàng cổ báu.  Mọi thứ đều gợi lên trong mắt du khách quá khứ đáng tự hào của xứ sở Do Thái.

   Sau đó, chúng tôi bay đến Karachi.  Pakistan chào đón chúng tôi bằng thời tiết nóng không tưởng đưọc.  Thành phố Sukkur, ở Sindh, nơi chúng tôi lái xe đến đầu tiên sau khi rời Karachi, nằm giữa sa mạc Sindhi.  Lúc đó, Sukkur có khoảng trăm ngàn dân, nhưng đó không phải là một thành phố bình thường như chúng tôi tưởng; đó chỉ là một tổng hợp của những ngôi nhà xây trong một biển bụi cát.  Điểm nóng nhất trên thế giới chỉ cách đây khỏang ba mươi dặm, ở sa mạc Sahara.

   Từ Sukkur, chúng tôi lái xe đến nơi nhận việc của Gerd, bên dòng sông Indus.  Đến nơi, chúng tôi mới biết không có chổ cho chúng tôi ở.  Chỉ có công ty của Gerd là sung sướng khi có một người như anh sẳn sàng chịu nhận công việc ở một nơi xa xôi như thế nầy.   Bấy giờ không có nhiều kỹ sư chấp nhận những điều kiện như thế.  Vì phần đông nếu có vợ con phải lo chổ ở, nơi học hành đàng hoàng cho con cái họ.  Dầu vui mừng đón tiếp chúng tôi, nhưng công ty hình như chẳng có chuẩn bị gì cho đời sống của chúng tôi ở đây.

   Một bạn đồng nghiệp tương lai của Gerd cũng vừa đến trước chúng tôi ít lâu, nhưng anh không có gia đình.  Anh chỉ mướn một căn phòng nhỏ để ở.  Vì thế anh cũng chẳng giúp gì đưọc cho chúng tôi, ngoài lời khuyên chịu khó kiếm tìm.

   Chúng tôi đành phải tự đi tìm, may thay gặp đưọc một nhóm kỹ sư Anh vừa sửa chữa xong một cây cầu bắc ngang sông Indus, và chuẩn bị trở về nước.  Họ có hai dãy nhà dài trên một đảo trên sông Indus, tất cả đều là phòng đơn.  Chổ ở khá xa xôi, bất tiện.  Nhưng họ vui lòng để lại cho chúng tôi tất cả.  Không còn lựa chọn nào, chúng tôi đành chấp nhận, và sửa sang để biến chúng thành một nơi tạm trú khả dĩ.  Trong mổi phòng, đều có giường và đồ dùng.  Mọi thứ khác đều phải mua tận Sukkur.

   Rồi bổng nhiên một toán nhân viên phục vụ dành cho chúng tôi xuất hiện.  Đó là do một bản hợp đồng đã ký kết giữa công ty và chính phủ Pakistan.  Không ai hỏi han gì đến chúng tôi -họ tự động dọn vào nhà: một đầu bếp, một thanh niên phụ việc, một người quét nhà, một người giặt ủi, mấy người thợ máy để coi máy phát điện, và ba nhân viên bảo vệ thay nhau bảo vệ chúng tôi trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ.  Tất cả các nhân viên nầy đều do chính phủ Pakistan trả lương.  Chúng tôi phải nhận họ vào làm việc dù có muốn hay không.

   Người đầu bếp thật là của báu.  Anh đã từng làm đầu bếp trong các gia đình người Anh, và nấu ăn rất khéo.  Cậu thanh niên phụ việc có nhiệm vụ bưng thức ăn, rửa chén.  Khi làm việc, cậu bé đội trên đầu một khăn quấn màu vàng nghệ.  Nhiệm vụ của người quét dọn là giữ cho khu vực của chúng tôi sạch sẻ -một cách tương đối thôi, vì nếu nhìn kỹ sẽ không thể bảo là sạch.

   Nhưng tệ hại hơn cả là người lo giặt giủ quần áo.  Anh ta làm quần áo chúng tôi hư hết.  Ở đó người ta giặt đồ theo một cách rất đặc biệt: Quần áo đưọc nhúng nước ướt, xong người ta đập chúng vào một tảng đá cho đến khi 'sạch'.  Dỉ nhiên không có gì có thể sạch đưọc, thêm vào không có dây để phơi đồ.  Người ta phơi đồ bằng cách trải đồ ra trên mặt đất.  Mổi lần giặt đồ là có thứ nầy hay thứ kia bị hư hỏng.  Có mấy lần tôi định cho anh giặt đồ nghỉ việc, nhưng anh ta phủ phục dưới chân tôi, xin đưọc ở lại vì còn 'bảy con nhỏ'.  Vậy là tôi không thể đuổi anh ta.

   Nhân viên bảo vệ cho chúng tôi cũng chẳng hơn gì.   Một đêm kia chúng tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng kêu thảnh thốt "Oâng ơi! Oâng ơi!" , và tiếng dộng cửa phòng ngủ.  Thì ra đó là người bảo vệ ban đêm của chúng tôi.  Chân tay run cầm cập, anh ta đòi Gerd phải đi theo anh ta ngay.  Qua cử chỉ của anh, chúng tôi cũng đoán đưọc là có một con rắn hổ rất to nằm ngoài cửa nhà bếp.  Gerd nói rằng, bổn phận của người bảo vệ phải biết làm gì chứ.  Nhưng anh ta cứ kêu lên "Oâng ơi! Oâng ơi!" mãi.  Cuối cùng Gerd phải ra cửa bếp, thấy con rằn hổ đang nằm cuộn tròn.  Anh dùng đá chọi nó đi.  Chúng tôi không bao giờ gặp lại con rằn đó nữa.  Suốt khỏang thời gian đó, độ hơn nửa tiếng, anh chàng bảo vệ núp kín trong nhà bếp.

   Ngoài ra, chúng tôi cũng có một tài xế.  Tuy bác tài không biết lái chiếc xe jeep chúng tôi đã đưọc tặng lúc đến Pakistan (xe jeep củ chúng tôi vẫn còn để lại ở Uùc), nhưng bác biết nói tiếng Urdu, là ngôn ngữ ở đây, và Pushdu, là ngôn ngữ đưọc xử dụng ở Bắc Pakistan.  Vì thế bác tài trở thành người phiên dịch và cũng là người bảo vệ của chúng tôi.

   Đó là hoàn cảnh gia đình chúng tôi lúc đó.  Tài liệu học tập của Jeff tôi yêu cầu gửi từ Uùc đến.  Ở đây người ta không những chỉ có những chương trình học đường qua đài phát thanh cho trẻ ở những nơi định cư hẻo lánh, mà còn có trường dạy chương trình hàm thụ qua bưu điện.  Tôi đã đưọc trường học đó ở Pakistan phục vụ rất chu toàn.  Mổi sáng, tôi đều kèm Jeff làm bài.  Đó không phải là một việc dể làm, vì Jeff không chịu ngồi yên để làm bài với tôi bên cạnh.  Mãi sau, cậu bé mới quen dần, có lẻ chính vì cậu rất thích đọc và viết.

   Sau khi sống ở đó một thời gian, tôi gửi Jeff đến một trường ở Pakistan để cậu bé có thể giao tiếp với trẻ con đồng lứa.  Jeff đưọc học tiếng Urdu ở đó, nhưng là cậu bé ngoại quốc duy nhất giữa bảy trăm đứa trẻ khác, Jeff cảm thấy rất khổ sở.  Nên chẳng lâu sau, chúng tôi lại phải để Jeff học ở nhà.

   Gerd có văn phòng riêng -và một cô thư ký chẳng biết tí gì về nghiệp vụ của mình.  Cuối cùng tôi phải đảm trách việc của cô và trở thành nhân viên của công ty.  Cũng không phải là một giải pháp tồi, vì chúng tôi có thêm tiền lương, và Gerd cần một người phụ tá đắc lực.  Ngoài những việc đó ra, tôi cũng không bận rộn lắm.

   Vì thế tôi tự học chuyên môn về ống dẩn dây điện.  Công việc của Gerd là thiết kế hệ thống các đường dây điện, thực hiện các bước khảo sát cần thiết trên mặt đất, rồi vẽ các hoạ đồ để công nhân theo đó mà làm.  Ngoài ra, nhà máy phát điện nối với các hệ thống đường dây nầy cũng đưọc Gerd thiết kế chi li.  Rồi anh cũng phải tính toán về nguyên vật liệu cũng như tiền chi phí.  Nhà máy phát điện dự tính sẽ dùng sức nước của dòng Indus, nơi đã đưọc khai thác thành đập nước.  Vật liệu xây dựng đáng giá hàng triệu đô la đưọc chuyên chở trên lưng các con lạc đà.  Thật là một cảnh tượng khôi hài.

   Đảo chúng tôi ở có cầu bắc đến cả hai bờ sông.   Một đầu cầu nối đến Sukkur, đầu kia dẩn đến Rohri, là một thị trấn láng giềng.

   Mổi sáng, chúng tôi đưọc đánh thức bởi tiếng xướng kinh vang vọng đến tận nhà chúng tôi.  Đó là tiếng xướng kinh của một vị cố đạo ở trên đền cao, mổi ngày năm lần, kêu gọi các con chiên của mình.  Ngày nay trong các thành phố ở Muslim, người ta thường phát băng cassette qua máy phóng thanh.   Nhưng trong những ngày ấy, người ta vẫn còn đưọc nghe giọng thật, và giọng đọc kinh đó thật tuyệt vời.  Tôi thường chăm chú lắng nghe, trong khi mắt dỏi nhìn qua cửa số, sững sờ trước đàn lạc đà và lừa đủnh đỉnh qua cầu, rung reng những cái chuông treo ở cổ, tạo thêm cho tất cả một vẻ hoàn toàn Á châu.

   Ngoài nhiệm vụ quan trọng trong giao thông, những chiếc cầu còn mang các nhiệm vụ khác.  Vì chúng là đầu nối giữa hai thành phố -Sukkur và Rohri- những người ăn xin thường tụ tập ở đó.  Hàng chục người nằm, ngồi dọc theo cầu, chìa những bàn tay, bàn chân thương tật, kêu xin người qua đường bố thí.  Tôi thường thấy dân địa phương bố thí cho mổi người một đồng tiền.

  Tôi hoàn toàn không biết phải phản ứng thế nào trong tình cảnh đó.  Vì tôi và Gerd mổi ngày đều hơn một lần đi qua đó, tôi cảm thấy tha thiết muốn làm gì đó cho họ, vì họ trông quá khổ sở, đau đớn, tuyệt vọng.  Mặt khác, chúng tôi cũng không thể cho tiền họ mổi ngày.  Tôi bèn bàn với anh đầu bếp xem phải làm gì cho ổn thoả.

   Anh ta có một đề nghị rất thông minh, mà chúng tôi đã làm theo trong suốt thời gian chúng tôi ở đó.  Anh ta bảo người giàu ở đây có thói quen hay mời cơm các thành viên trong tổ ăn xin của thành phố, mổi tháng một lần.  Anh ta bảo sẽ lo mua thức ăn, sửa soạn thức ăn cho họ.  Khi tôi hỏi anh vể đội ngủ ăn xin là thế nào, anh giải thích đó là một liên đoàn có chủ tịch, có các viên chức , và những người ăn xin đưọc liên đoàn chỉ định chổ ngồi ăn xin đàng hoàng.  Rồi anh chỉ cho tôi một người ăn xin có dáng vẻ tội nghiệp nhất, và bảo đó là chủ tịch của liên đoàn ăn xin, một người đàn ông khá giàu có đến mấy căn nhà ở Sukkur.

   Tôi lại lo lắng không biết làm sao để báo cho mấy người ăn xin biết chúng tôi sẽ mời họ như thế?  Anh đầu bếp lại trấn an tôi là anh sẽ báo tin đó ở buổi chợ.  Và mọi việc đã xảy ra đúng như thế.  Vào một ngày nhất định, có khỏang năm trăm người ăn xin xuất hiện, họ chuyện trò vui vẻ, ăn uống tận tình tất cả những món mà anh đầu bếp đã nấu dành cho họ.  Anh đã phải sửa soạn nấu nướng cả ngày hôm trước đó, cuối cùng không còn dư miếng nào.  Có lẻ đó là cách tốt nhất, vì từ đó, mổi lần chúng tôi đi qua cầu, các người ăn xin lại vẩy chào chúng tôi rất thân thiên, làm tôi cảm thấy nhẹ cả lòng.

   Trong cuộc sống hằng ngày, kinh nghiệm của tôi đối với các người phục vụ trong nhà khi còn là đứa trẻ ở Bá Linh, đã giúp cho tôi rất nhiều.  Tôi không thấy bỡ ngỡ, xa lạ khi bảo ban họ, như là mấy bà vợ của các kỹ sư ngoại quốc khác.  Các bà vợ khác đôi khi phát bực khi phải lo cho quá nhiều người phục vụ.  Thật vậy, đó không phải là một điều đơn giản.   Lúc nào chúng tôi cũng phải lo cho họ mọi chuyện.  Con gái của bác tài lập gia đình, tôi phải khuyên bác về việc mua sắm của hồi môn.   Nếu một trong những 'nhân viên' của tôi bịnh, tôi phải kêu bác sĩ.  Ngay cả khi họ cãi nhau, tôi cũng phải làm người đứng ra dàn xếp.

   Tôi thường nhớ lại những thời gian cực khổ ở Thượng Hải, khi tôi rất nghèo.  Giờ tự dưng chúng tôi có dư dả, nếu không nói là giàu có.  Tôi có bao nhiêu người giúp việc, và có thể mua gì tùy thích.  Nhưng tôi cũng không biết phải mua gì cho mình.  Một lần nữa cái cảm giác lạ lùng lại dâng trào trong tôi, cái cảm giác làm tôi nghĩ rằng phải có một cái gì đó cao hơn cái nghèo, cái giàu, cái có, cái không.  Phải có cái gì hơn thế nữa thì cuộc đời mới có ý nghĩa hơn.

   Rồi cuộc sống của chúng tôi cũng ổn định thành những ngày như mọi ngày.  Jeff vẫn đi học, đi chơi.  Gerd vẫn đến văn phòng hay lái xe đi khảo sát xem các đường dây cần đưọc đặt ở đâu.  Một lần anh trở về, kể rằng đã gặp một người nông dân rất già, ngồi bên vệ đường.  Gerd xuống xe, hỏi ông lão đây có phải là đất của ông không, vì anh cần khảo sát địa hình.   Người nông dân trã lời: "Không, đất đai nầy thuộc về thần Allah, tôi chỉ là người giữ đất".

   Đối với tôi, đó là một câu trã lời đầy ý nhị.   Sống trên đảo, ngoài chúng tôi còn có một nhà truyền đạo Muslim, có nhiệm vụ giống như một linh mục.   Oâng sống một mình trong một ngôi đền nhỏ.  Thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm ông mang theo bánh, trái cây.  Vì chúng tôi không nói tiếng Urdu, chúng tôi phải mang theo anh tài xế làm người thông dịch.  Tôi cảm thấy từ người truyền giáo nầy toát lên sự bình an.  Oâng có thể trao đổi với chúng tôi rất nhiều điều nếu như chúng tôi có thể trao đổi trực tiếp, còn bác tài của chúng tôi thì có lẻ chẳng hiểu gì về những điều chúng tôi muốn biết.  Thật là uổng phí, vì không dể gì gặp đưọc những vị cao đạo mà bạn cảm thấy muốn gửi gắm những điều quan trọng.

   Gerd bổng ngã sốt rét.  Tôi chở anh trong tình trạng nguy kịch, đến một bịnh viện của các bác sĩ quân đội người Hoà Lan.  Họ chữa khỏi cho anh, nhưng cũng phải mất mấy tuần trước khi Gerd có thể về nhà.  Suốt thời gian đó trong bịnh viện, tôi cũng kiếm việc phục vụ để không cảm thấy mình vô tích sự.  Nhưng phải thú thật là tôi đã cố gắng lắm để không gớm nghiếc, nôn mửa.  Có lẻ tôi không thích hợp làm những công việc trong bịnh viện, nhất là trong những điều kiện như thế nầy.  Những gì tôi mắt thấy, tai nghe ở nơi đây chỉ làm tôi thêm buồn lòng.  Cách quản lý thì tồi tệ, dụng cụ y khoa thì thô sơ, không đảm bảo vệ sinh.  Các bác sĩ đã làm tất cả trong khả năng của mình, nhưng lúc nào hình như cũng có quá nhiều bịnh nhân, quá nhiều căn bịnh.

   Chúng tôi càng thêm thất vọng.  Vì chúng tôi nhận làm công việc nầy không chỉ vì đồng lương, mà vì chúng tôi nghĩ có thể giúp cho cuộc sống của những người dân nghèo khổ ở đây đưọc khá hơn, bằng cách đem đến cho họ ánh sáng của nguồn điện.  Nhưng cuối cùng đó chỉ là một giấc mộng ảo huyền.  Thực tế là chỉ có những điền chủ giàu có mới đưọc hưởng sự ích lợi đó, còn người nghèo khổ thì chả đưọc hưởng gì.  Sau khi nhà máy phát điện đã đưọc hoàn thành, họ vẫn nghèo khổ như tự bao giờ.

   Ở điạ vị của Gerd, anh còn phải có bổn phận trong các công việc giao tiếp xã giao.  Chúng tôi phải giao tiếp với các đồng nghiệp trong ngành điện ở Pakistan, với các kỹ sư cùng làm trong công trình, các nhà ngoại giao và nhân viên ở lãnh sự quán.  Chúng tôi thường phải tham dự các hội hè ở Lahore và Karachi.  Những lúc đó chúng tôi phải nghĩ tại các khách sạn sang trọng, đắt tiền.

   Những loại công tác nầy không thích hợp với cá tính của chúng tôi.  Cả Gerd và tôi đều cảm thấy đó không phải là cách sống của chúng tôi.  Người ta tụ họp lại, xã giao ba tấc lưỡi, rồi ăn nhậu -đó là phần quan trọng nhất.  Ngoài ra, chúng tôi ăn chay, mà trong các bữa tiệc nầy luôn thừa mứa các món ăn làm từ bao nhiêu là thịt cừu, thịt dê.  Và các câu chuyện xã giao chúng tôi cũng chẳng thấy thú vị gì.   Vì thế, chúng tôi quyết định là sau hai năm, chúng tôi sẽ không gia hạn hợp đồng làm việc.

   Nhưng ở Pakistan, điều làm tôi bức xúc nhất là vấn đề nữ quyền.  So với nam giới, họ chẳng có chút quyền hạn nhỏ nhoi nào, ít nhất là ở thời điểm chúng tôi có mặt ở đó.  Có lẻ qua thời gian đã có nhiều thay đổi chăng, tôi sợ là không đưọc nhiều lắm.   Nhất là ở vùng thôn quê, nơi chúng tôi sống, tất cả phụ nữ Pakistan phải mặc burka.  Burka là loại áo trùm phủ người đàn bà từ đầu đến chân.  Chỉ chừa ra đôi mắt, để họ đi không bị vấp ngã thôi.  Chỉ có ở Karachi, thỉnh thoảng tôi còn thấy các phụ nữ trẻ không che mặt.

   Ban đầu tôi quen ra phố với trang phục bình thường, nhưng đám thiếu niên, hay ngay cả đàn ông lớn tuổi thường chọi đá vào tôi.  Phụ nữ mà để mặt ra đường, anh đầu bếp cho tôi biết, bị người ta coi là gái điếm.  Dầu tôi là người ngọai quốc, họ cũng chẳng cần quan tâm.  Vì thế để khỏi bị lâm vào tình cảnh trên, cuối cùng tôi cũng phải nhờ thợ may may cho một bộ burka.  Mặc loại áo đó thật là khốn khổ.  Khó chịu nhất là bên trong rất nóng, tôi lại không thể thấy gì nhiều.  Vì thế tôi cũng ít mặc nó ra đường.

   Trong kinh thánh Koran tôi đưọc đọc, phụ nữ chỉ có thể để lộ thân thể với chồng mình.  Điều đó có nghĩa là, ngay cả với các bác sĩ,  họ cũng không đưọc phép cởi bỏ quần áo.  Chỉ khi người chồng có mặt, thì các bác sĩ mới đưọc quyền khám dưới lớp áo burka.

   Phụ nữ chỉ đưọc xuất hiện nơi đám đông khi thật cần thiết.  Khi Gerd và tôi lái xe đi xuyên qua các vùng quê, chúng tôi thường đưọc các điền chủ, hay các ông chủ nhà máy dệt, ở dọc theo lộ trình mời đến nhà.   Không bao giờ trong các cuộc đón tiếp có mặt người phụ nữ.  Chỉ khi nào tôi yêu cầu, thì mới đưọc phép đến chổ ở của họ.  Những lúc như thế, tôi thường nghe phụ nữ than thở về sự bất hạnh của họ.  Tóm lại, họ không đưọc quyền làm gì cả ngoài việc sinh con và ăn uống.  Khi còn trẻ, họ đẹp, nhưng vì không đưọc đi đâu sau khi lập gia đình, họ thường trở nên béo phì.  Cuối cùng, niềm lạc thú duy nhất của họ có lẻ chỉ là ăn uống.

   Trong những gia đình chúng tôi thăm viếng, tôi đưọc gặp một phụ nữ trẻ, con nhà gia giáo, có học, biết nói tiếng Anh.   Cha cô từng là nhà ngoại giao của Pakistan ở Mỹ.  Cô là dâu trong gia đình chúng tôi đến thăm viếng.  Cuộc hôn nhân của cô rất đặc biệt -đó là một cuộc hôn nhân dựa trên tình yêu.  Dầu vậy cô rất khổ đau với những gì xã hội áp đặt lên cô.  Cô đã thành lập một trường học cho các em bé gái, xem ra đó là ngôi trường duy nhất dành cho bé gái.  Cô đã mời tôi đến thăm và dạy học ở đó.  Nhưng không thành  vì đám trẻ không nói đưọc tiếng Anh, và tôi cũng không thể dạy chúng trong một thời gian quá ngắn.  Rồi những ngày tháng sống ở Pakistan của chúng tôi cũng dần hết hạn.

   Trước khi ra đi, tôi có đến viếng thăm cô bạn trẻ nầy đôi lần ở trường, và thấy cô rất hạnh phúc trong công việc của mình.  Công việc nầy đã mang đến cho cô niềm tự tin mà các chị em bạn dâu khác của cô không thể nào có đưọc.  Họ chỉ biết ta thán về một cuộc sống buồn chán, tù túng.  Chỉ có bà mẹ chồng là cảm thấy mọi việc không có gì đáng phàn nàn.  Nhưng không biết khi còn trẻ, thì bà có suy nghĩ như thế không?

   Có lần tôi mời họ đến nhà chơi.  Họ đến trong những chiếc burka lụa đen, mà khi vừa bước vào đến bên trong, họ vội vàng cởi ra ngay.  Đến khi thấy cậu bé giúp việc mang cà-phê, bánh vào, họ thét lên chạy túa ra khỏi phòng.  Thì ra theo luật, cậu không đưọc phép nhìn thấy mặt họ!  Tôi phải thề sống, thề chết với họ là cả tôi cũng như cậu bé giúp việc sẽ chẳng ai dám hở chuyện đó ra với ai.   Cũng phải một lúc sau, họ mới hòan hồn để thưởng thức những chiếc bánh tôi đã đặc biệt dặn làm cho họ.  Khi họ ra về, tất cả đều hết sạch.

   Tôi hỏi họ có nghĩ đến việc thay đổi cách sống không?  Tôi đề nghị một vài thay đổi mà tôi đã có suy nghĩ qua.  Họ ừ hử, rồi hỏi tôi bằng cách nào?  Hình như họ không xem những điều tôi nói là nghiêm chỉnh, cũng như không thực sự nghĩ rằng họ có thể thực hiện đưọc.  Rỏ ràng là họ chỉ muốn đưọc giải bày dù chỉ một lần những bất hạnh của mình với một người mà họ biết chẳng bao giờ đem nói đi, nói lại.  Nhưng ngoài việc thở than, họ chẳng muốn làm gì để thay đổi số phận cả.  Tôi sợ rằng cho đến bây giờ những người phụ nữ Pakistan cũng vẫn phải chịu áp bức như ba mươi lăm năm trước khi tôi sống ở đó.

   Tôi còn nhớ rỏ một cảnh tượng đã xảy ra ở Sukkur.  Có rất nhiều rạp chiếu bóng ở đó, và một ngày kia, người ta quảng cáo một phim của cô đào Marilyn Monroe.  Một tấm biển đồ sộ chưng hình cô đào mặc áo tắm đưọc dựng lên!  Chúng tôi tình cờ đi ngang qua, chứng kiến hằng trăm người đàn ông đứng trước tấm poster, trố mắt, há mồm ngắm nhìn thân thể của cô đào hát.  Thật là quái gở.  Trong khi đàn bà của họ, đi qua đi lại trong những tấm vải đen bịt bùng.

   Gerd rất thích chụp ảnh.  Trước cảnh tượng đó, anh đưa máy lên chụp.  Hành động đó khiến anh xúyt bị no đòn, nếu như anh đã không nhanh chân chạy thục mạng.  Nhẹ lắm thì chắc cũng bị họ đập nát máy ảnh.  Có lẻ Gerd cũng không nên chụp hình lúc đó, nhưng cảnh tượng đó rõ ràng phản ảnh sự méo mó trong cuộc sống khi giới tính nầy đàn áp giới tính kia.

   Sau hai năm, hợp đồng của chúng tôi chấm dứt, nhưng nhà máy điện vẫn chưa xây xong.  Dự án tiến triển quá chậm.  Các bản vẽ đưọc thiết kềù, thâu nhận, ký tên rồi chờ đợi.  Mấy chú lạc đà đã tốn công chở hằng triệu đô la Canada tiền vật liệu trên lưng.  Lạc đà đúng là một phương tiện chuyên chở tốt trên sa mạc cát, nhưng chúng cũng rất cứng đầu, cục tính.  Nhiều con phải bị niềng quai hàm, nếu không nó sẽ cắn cả chủ.  Và khi chúng không muốn di chuyển, chúng cứ nằm dài ra đường.  Người ta nói nếu bắt lạc đà chở quá sức, chúng sẽ không đứng dậy.  Sự lỳ lợm của chúng làm tôi phải ngạc nhiên.

    Chúng tôi sống gần ở những nơi mà năm ngàn năm trước đây nền văn minh của thung lũng Indus đã rộ nở.  Nhưng cho đến bây giờ, người ta cũng không giải thích đưọc về sự lụn bại của nó.  Thí dụ như Mohenjodara, cách nơi chúng tôi chừng bốn mươi kilomét.  Người dân nơi đây từ thời xa xưa đó đã có nhà tắm xây trong nhà, cũng như rất nhiều nhà tắm công cộng.  Họ đã có đường tráng, và hệ thống xử lý rác.   Quanh Mohenjodara là những cánh đồng họ đã từng canh tác.  Có giả thuyết cho rằng lý do thành phố nầy bị bỏ hoang là vì những cánh đồng nầy dần dần không cho hoa mầu, vì thế dân chúng cứ phải di dân dần ra xa, khỏi xứ.

   Chúng tôi thường đến thăm viếng những nơi hoang tàng đó, vì chúng rất nhiều trong vùng chúng tôi ở.  Chúng tôi tìm thấy những hột đất sét, nữ trang và rất nhiều lu hủ trang trí thẩm mỹ.  Có lần chúng tôi khám phá ra một khu đồ đá, đào đưọc khá nhiều đồ, nằm gần như lộ thiên: cung, nỏ, búa, dao.  Chúng tôi lấy một ít và báo cho chính quyền ở Karachi về sự khám phá đó.   Bảo tàng viện ở Karachi chở một đàn lừa đến chở đồ trong những chiếc túi vải về thành phố.  Những món đồ nầy có đến hơn năm trăm năm, và có hình dáng giống như những đồ đá tìm thấy đưọc ở Aâu châu.

   Jeff thích đi lang thang khắp nơi trên đảo Indus.   Cậu bé tìm đưọc rất nhiều thứ: các loại ốc, cây kiếng và lu hủ.  Chúng tôi thường nhờ bảo tàng viện ở Karachi định ngày tháng của những cổ vật.  Một lần Jeff tìm đưọc những miếng gạch bằng ceramic đẹp tuyệt vời.  Có lẻ từ một ngôi đền xây trên đảo từ thế kỷ thứ bảy.  Chúng tôi mang một ít gạch ngói nầy về Uùc.

   Lần khác, Jeff về nhà, giấu hai tay sau lưng và nói: "Mẹ, đoán xem con đã tìm đưọc thứ gì?"  Tôi không thể đoán đưọc.  Đó là một con ngựa nhỏ bằng đất sét, dài khỏang mười centi mét, cao năm centi mét.  Sau nầy chúng tôi mới biết con ngựa đó đã một ngàn năm tuổi!

   Jeff vẫn còn giữ con ngựa nhỏ đó ở nhà, trong một chiếc hộp lồng kính.  Đó là vật duy nhất khiến Jeff nhớ về Pakistan.  Ngoài ra không còn nhớ gì nữa cả -những con lạc đà, dòng Indus, các người giúp việc, những buổi sáng tôi dạy con học, tiếng xướng kinh của người giữ đền vào những buổi mờ sáng.  Tất cả đã chìm vào lãng quên.

   Khi thời hạn sống trên đảo đã hết, chúng tôi đóng tất cả đồ đạc vào các thùng và gửi về Uùc, nhờ người ta giử dùm.  Gerd dự định sẽ bay qua Luân đôn, mua một chiếc xe van hiệu Land Rover để lái xuyên suốt Aâu châu, Á châu, Kashmir, Aán độ, cho đến tận Singapore.  Rồi từ đó chúng tôi sẽ lấy tàu trở về Uùc.   Dỉ nhiên đó chỉ là dự tính của Gerd, chứ không phải của tôi.  Tuy nhiên, cũng như mọi lần, tôi luôn làm theo ý anh.

   Những gì tôi muốn tìm kiếm, tôi cũng chưa khám phá ra.  Có thể tôi sẽ tìm đưọc chúng ở một nơi nào đó, một ngày nào đó.

Xem tiếp

0 nhận xét:

Đăng nhận xét